“ Trong cách học, phải lấy tự học làm cốt”
(Hồ Chí Minh)
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn đồng thời là một nhà giáo dục, nhà sư phạm kiệt xuất. Sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người gắn liền với những hoạt động giáo dục. Trên con đường đi tìm chân lí cứu nước, Người đã dừng lại ở trường Dục Thanh dạy học (1910), tại đây Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã để lại một dấu ấn tuyệt đẹp về tác phong và hoạt động giáo dục của mình. Là một thầy giáo trẻ, giàu lòng yêu nước , thầy Thành đã thể hiện được phong cách dạy học trẻ trung, gần gũi với học trò, luôn giảng dạy cho trò những câu chuyện lịch sử, những nhân vật lịch sử để thổi vào cho trò tình yêu đất nước, yêu nước gắn liền với yêu dân. Không chỉ yêu thương học sinh của mình mà Người còn tin tưởng ở họ, bày vẽ cho họ cách học, cách sống. Yêu thương và quí trọng con người là phẩm chất đầu tiên của thầy giáo Nguyễn Tất Thành.
Những năm bôn ba hải ngoại đi tìm đường cứu nước, người thầy giáo Nguyễn Tất Thành đã tìm thấy Chủ nghĩa Mác Lê nin – con đường cách mạng chân chính với bis danh là đồng chí Vương, Người trở về Quảng Châu (1924 – 1927) mở lớp huấn luyện chính trị cách mạng. Là giảng viên chính của lớp học, Người đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền đạt lí thuyết với hướng dẫn thực hành, tổ chức tham quan nhằm giúp đỡ người học mở rộng, củng cố những điều đã học. Học viên của Người là những thanh niên yêu nước Việt Nam đầy nhiệt huyết, nhưng chưa hiểu được con đường cách mạng, Người trực tiếp đào tạo, chỉ ra con đường cách mạng, tạo cho họ niềm tin vững chắc vào cách mạng. Người vừa là người thầy, người đồng chí, người bạn của tất cả những học viên này. Cuốn sách giáo khoa chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam chính là tác phẩm “Đường Kách mệnh”, là cuốn sách tập hợp các bài giảng của Người. Nội dung cuốn sách tuy ngắn gọn, nhưng súc tích, dễ hiểu, đã thể hiện tính khoa học trong phong cách ngôn ngữ của Bác Hồ. Với thái độ tận tụy và hết lòng trong công việc, cùng với một phong cách giản dị, gần gũi, nhân ái của Người đã có sức cảm hóa và thu hút đông đảo các tầng lớp thanh niên yêu nước Việt Nam. Với phương pháp giảng dạy của nhà cách mạng Nguyễn Aí Quốc đã tạo ra sức hút, niềm tin, cổ vũ thanh niên Việt Nam đi theo con đường cứu nước mới.
Trong thời gian ở Thái Lan (1928 – 1929) với bí danh là Thầu Chín, Người tiếp tục mở các lớp huấn luyện chính trị cho những thanh niên yêu nước đang hoạt động tại đây. Vẫn với một tác phong bình dị, quan tâm tới người khác, lại học và nói được tiếng Xiêm, nên chỉ trong một thời gian ngắn, Người đã sống hòa mình với mọi người, tạo được sự tin yêu của người dân nơi đây. Lớp học do Người mở đã nhanh chóng thu hút đông đảo kiều bào yêu nước người Việt tham gia. Tại lớp học này, Người khuyến khích mọi người học chữ Việt Nam, học ngoại ngữ, đặc biệt phải học tiếng Xiêm. Người đề ra, trong thời gian đầu mỗi ngày học 10 chữ Xiêm, không học nhiều, về sau tăng dần, tuy nhiên mọi người chê ít, ai cũng muốn đòi học nhiều hơn. Kết quả những người học chữ Xiêm “chữ được – chữ mất”, riêng Bác Hồ đã đọc và viết được chữ Xiêm. Chính sự kiên trì, nhẫn nại và khổ học của Bác đã dạy cho mọi người, học không thể nóng vội, phải có phương pháp học mới có kết quả. Ngoài việc học chữ, việc Bác quan tâm nhất chính là tập hợp cho được đông đảo kiều bào hướng về tổ quốc, kêu gọi họ đi theo con đường cách mạng mới, chân chính. Để đạt được mục đích đó, Người đã tổ chức các buổi họp mặt, lúc đầu thì nói những chuyện đời thường, sau nói những câu chuyện lịch sử dân tộc, rồi đến những câu chuyện chính trị, từ nói chuyện thân mật đó, dần dần phát triển thành những lớp “diễn giảng”, một hình thức sinh hoạt chủ đề được chuẩn bị kĩ hơn. Mỗi buổi giảng Người chia làm 3 phần: phần đầu nói về tình hình trong nước, thế giới, kể vài câu chuyện về tinh thần đoàn kết, thân ái của người Việt kiều ở các nơi. Phần thứ hai giảng về lí luận cách mạng, để đồng bào dễ hiểu, bài giảng của Thầy thường ngắn gọn, phù hợp với từng đối tượng người nghe. Kết thúc bài giảng là những cuộc trao đổi, thăm hỏi các học viên, những chỗ nào chưa hiểu, hoặc còn lờ mờ Thầy giảng lại, hoặc để cho các học viên chất vấn lại. Phong cách dạy học của thầy giáo Thầu Chín đã thể hiện tính sư phạm rất cao khi đã kích thích tính tự học, tạo sự hứng thú cho người học, sự gần gũi, gợi mở làm cho không khí lớp học nhẹ nhàng, không gây áp lực cho người học.
Công tác giáo dục để đào tạo một con người, một thế hệ là vô cùng quan trọng, cho nên không thể giới hạn trong một giờ lên lớp, một buổi nói chuyện, trong phạm vi một lớp học mà phải kết hợp nhiều hình thức giáo dục, giáo dục mọi nơi, mọi lúc. Người đã kết hợp nhiều hình thức giáo dục sinh động như tổ chức diễn kịch, vừa đi đường vừa kể chuyện, tham quan các danh lam thắng cảnh, học tại các di tích lịch sử…đặc biệt Người rất chú ý tới vai trò của người đi giáo dục, để đạt được mục đích giáo dục có hiệu quả, bản thân Người luôn đề cao ý thức gương mẫu trong mọi hành vi, yêu thương, qúi trọng người học, luôn khắc phục mọi khó khăn, bền bỉ trong tự học, kiên trì với mục đích của mình.
Năm 1941, Người trở về nước. Công việc đầu tiên mà Người quan tâm chính là mở các lớp huấn luyện về chương trình hành động của Mặt trận Việt Minh. Vấn đề quan trọng đặt ra trong các lớp huấn luyện là phải dạy văn hóa, dạy chữ thông qua đó để tuyên truyền đường lối cách mạng. Để đạt được mục đích đó, thật không dễ đối với các giáo viên, bởi lớp học chủ yếu là các cán bộ, đồng bào dân tộc, người biết đọc, biết viết không nhiều, ngôn ngữ, độ tuổi, trình độ khác nhau… Bác đã gợi ý: khi dạy phải biết là: Đang huấn luyện cho ai? Huấn luyện những gì? Huấn luyện trong bao lâu? Huấn luyện ở chỗ nào? Lấy gì ăn mà huấn luyện? Từ gợi ý của Bác, việc mở lớp và dạy học nhanh chóng được hình thành. Với cương vị là người sáng lập trường học cách mạng giữa rừng núi Pắc Bó, Người vừa là hiệu trưởng, vừa là giáo viên, vừa là nhà cách mạng. Chương trình và tài liệu học tập do Bác biên soạn ngắn gọn, đầy đủ, súc tích, dễ hiểu, phù hợp với từng đối tượng. Ví như khi dạy lịch sử dân tộc, Bác soạn cuốn “Lịch sử nước ta” bằng thơ lục bát làm cho ai đọc cũng dễ hiểu, dễ nhớ. Thông qua dạy chữ mà tuyên truyền, đào tạo cán bộ, dạy chữ kết hợp với dạy người. Thầy giáo với học sinh gần gũi, thân mật, cùng nhau chia sẻ và cùng phấn đấu, rèn luyện ngày một cao hơn, kể cả thầy lẫn trò. Bác yêu cầu khi giảng bài tránh nói tràn lan, cần tinh giản, lựa chọn những nội dung chính cần phải dạy và dạy cái gì cho thiết thực. Khi giảng xong phải hỏi họ có tiếp thu được không? Giảng một lần học viên chưa hiểu, thì phải giảng đi giảng lại nhiều lần. Ai tiến bộ thì phải kịp thời động viên, nếu không gặp khó khăn họ dễ nản chí. Cách thức đào tạo phải hết sức linh hoạt, tùy theo tình hình cụ thể, vừa cơ động, vừa đạt hiệu quả cao. Lớp học không cần tổ chức quy mô, miễn làm sao trò ham học và thầy nhiệt tình. Làm thầy giáo thì phải sống với dân, gần dân, hiểu dân, có như thế lớp học mới được duy trì, được củng cố và mở rộng. Bác khuyến khích tự học, học mọi lúc, mọi nơi, học ở quần chúng, học ở sách báo, học lẫn nhau, học ở những cái hàng ngày mình vẫn thấy, vẫn gặp. Bản thân Bác là một tấm gương sáng về tự học mà các học viên và cán bộ cần phải học tập và làm theo.
Có thể nói, phong cách dạy học gần gũi, thân mật, thái độ tận tụy và một phương pháp dạy học khoa học, sáng tạo chính là sự kết đọng những tinh hoa từ thầy giáo Thành, đồng chí Vương, Thầu Chín… qua nhiều năm tháng gian truân đi qua nhiều chân lục, học được nhiều thứ tiếng, vừa là nhà cách mạng, vừa là nhà nghiên cứu, vừa là nhà sư phạm. Sự khổ luyện, sự hiếu học của Người và sự truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam thực sự là nhà sư phạm cách mạng kiệt xuất để các thế hệ nhà giáo Việt Nam học tập và noi theo.
Chi đoàn Khu di tích Kim Liên
- BỘ TƯ LỆNH QUÂN KHU 4 TỔ CHỨC PHÁT ĐỘNG “TẾT TRỒNG CÂY ĐỜI ĐỜI NHỚ ƠN BÁC HỒ” TẠI KHU DI TÍCH KIM LIÊN
- LỄ GIỖ LẦN THỨ 120 CỦA BÀ HOÀNG THỊ LOAN- THÂN MẪU CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
- TUYÊN TRUYỀN TRỰC QUAN CỔ ĐỘNG KỶ NIỆM CÁC NGÀY LỄ LỚN
- ĐOÀN ĐẠI BIỂU TRUNG ƯƠNG HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM VỀ THĂM KHU DI TÍCH KIM LIÊN
- TƯỞNG NHỚ BÀ NỘI CỦA BÁC HỒ