Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm hỏi chiến sĩ thi đua Phạm Trung Pồn (thương binh bị mù cả hai mắt nhưng có nhiều sáng kiến cải tiến công cụ) tại Hội nghị Thanh niên xã hội chủ nghĩa khu Việt Bắc, ngày 13/3/1960.
(Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh).
Chiến tranh đã đi qua, đất nước hòa bình thống nhất gần 50 năm, nhưng những đau thương, mất mát mà chiến tranh để lại thì không gì bù đắp được. Bởi rất nhiều người nằm lại nơi chiến trường, những người trở về có thể không còn lành lặn nữa. Mỗi chúng ta luôn biết ơn và tri ân với những người đã hiến dâng cuộc đời, tuổi xuân và xương máu của mình để bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Hằng năm, cứ đến ngày 27/7 là cơ hội đặc biệt để nhân dân cả nước chăm sóc, đền đáp công lao của các thương binh, liệt sĩ.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời, chính quyền cách mạng còn non trẻ thì thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta. Với tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, nhân dân ta đã anh dũng chiến đấu chống sự xâm lược trở lại đó. Nhiều đồng bào và chiến sĩ ta bị thương, nhiều người bị hy sinh. Đầu năm 1946, Hội giúp binh sĩ bị nạn được thành lập tại Hà Nội và một số tỉnh thành. Nhiều cuộc quyên góp ủng hộ quỹ giúp binh sĩ bị thương thu được kết quả tốt. Ngày 29/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 84B về việc tuyên dương công trạng, hoặc có thể thưởng “Huy chương Quân công” cho các chiến sĩ và những người ngoài quân đội bị thương, tử trận hoặc lập được chiến công anh dũng trong khi chiến đấu. Cuối năm 1946, cả nước dấy lên cuộc vận động “Mùa đông binh sĩ”. Ngày 17/11/1946, phong trào mở đầu tại Nhà hát Lớn (Hà Nội). Bác Hồ đã cởi chiếc áo rét đang mặc để tặng thương binh. Noi gương Bác, đồng bào khắp nơi ủng hộ hàng vạn quần, áo, mũ, giày, chăn… cho các thương binh.
Ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, chiến tranh lan rộng, số người bị thương, hy sinh tăng lên. Đời sống của các chiến sĩ, nhất là các chiến sĩ bị thương gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách quan trọng về công tác thương binh, liệt sĩ, góp phần đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần cho các gia đình chính sách trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến. Để đảm bảo chế độ cho thương binh, gia đình tử sĩ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL ngày 16/2/1947 Quy định chế độ hưu bổng thương tật, tiền tuất cho thân nhân, tử sĩ. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sĩ đối với cuộc chiến tranh của Việt Nam.
Tháng 6/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn một ngày trong năm làm ngày tưởng niệm thương binh, liệt sĩ. Thực hiện chỉ thị của Người, tại xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên diễn ra hội nghị trù bị với sự tham gia của đại biểu các cơ quan, các ngành ở Trung ương, khối và tỉnh. Hội nghị đã bàn bạc và nhất trí lấy ngày 27/7/1947 làm Ngày Thương binh trên toàn quốc. Đầu tháng 7/1947, Ban Vận động tổ chức Ngày thương binh toàn quốc được thành lập. Tiếp đó, ngày 19/7/1947, Chính phủ quyết định thành lập Bộ Thương binh và Cựu binh, sau đó đổi thành Bộ Thương binh.
Qua Ban Tổ chức Ngày Thương binh toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư nhắn nhủ: “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy... Ngày 27 tháng 7 một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái, là tỏ ý yêu mến thương binh…” [1].
Tháng 7/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào “đón thương binh về làng”. Người chỉ rõ: “Chính quyền, đồng bào và các đoàn thể nhân dân trong mỗi xã phải tùy theo sự cố gắng và khả năng chung của mỗi xã mà đón một số anh em thương binh. Giúp lâu dài chứ không phải giúp trong một thời gian” [2]. Tính đến năm 1954, hàng vạn thương binh được đồng bào ở nhiều làng xã từ khu IV trở ra đón về chăm sóc, phục hồi sức khỏe, ổn định đời sống và công tác…
Từ tháng 7/1955, Ngày Thương binh được đổi thành “Ngày Thương binh, liệt sĩ” để ghi nhận những hy sinh lớn lao của đồng bào, chiến sĩ cả nước. Cũng từ đây, rất nhiều chính sách, chế độ đối với thương binh và gia đình liệt sĩ được Chính phủ ban hành.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thấu hiểu hơn ai hết sự hy sinh, cống hiến của các thương bệnh binh, liệt sĩ vì độc lập, tự do của Tổ quốc, những mất mát ấy không thể bù đắp được. Trong các bài nói, bài viết, Người khẳng định và ghi nhận sự dâng hiến và sự hi sinh cao cả đó: “Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do” [3]. Vì thế, Người luôn mong muốn đối với “Những người con trung hiếu ấy, Chính phủ và đồng bào phải báo đáp thế nào cho xứng đáng” [4] và “Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ và chúng ta phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để vượt tất cả mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ đã chuyển lại cho chúng ta” [5].
Trong cả hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở về trách nhiệm và động viên các địa phương, các đơn vị và các cá nhân phải hết lòng giúp đỡ, chăm lo cho thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng: “Ăn quả phải nhớ người trồng cây. Trong cuộc tưng bừng vui vẻ hôm nay, chúng ta phải nhớ đến những anh hùng, liệt sĩ của Đảng ta, của dân ta…” [6]. Trong Thư gửi thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ nhân ngày 27/7/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân và gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ quốc, với nhân dân. Cho nên bổn phận chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ” [7].
Luôn chú ý đến hoạt động đền ơn đáp nghĩa trong cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời khen ngợi và biểu dương những đơn vị, cá nhân làm tốt công tác chăm sóc thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Đồng thời, Người cũng yêu cầu các địa phương phải thực hiện nghiêm chỉnh những chủ trương, chính sách của Nhà nước dành cho thương binh, liệt sĩ: “… Tôi cũng nhắc các cơ quan, đoàn thể phải chấp hành một cách chu đáo các chính sách của Đảng và Chính phủ đối với anh em thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ…” [8]. Và “Nhiều nơi đồng bào đã hiểu đúng và làm đúng như vậy. Nhưng cũng còn một số ít địa phương chưa hiểu đúng, làm đúng. Tôi mong rằng đồng bào, đoàn thể và cán bộ ở những địa phương đó sửa chữa những thiếu sót ấy, và quan tâm giúp đỡ những người đã từng hy sinh cho nước nhà” [9]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người gương mẫu đi đầu trong việc đền ơn đáp nghĩa: “Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sĩ đó, và tôi nhận con các liệt sĩ làm con nuôi của tôi” [10]. “Tôi xin xung phong gửi… một tháng lương của tôi, một bữa ăn của tôi, và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch…” [11].
Từ năm 1947, Ngày Thương binh, liệt sĩ được tổ chức thường kỳ hàng năm. Dù công việc bận rộn nhưng năm nào vào dịp 27/7, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng gửi quà, thư tới anh chị em thương binh, bệnh binh và các gia đình liệt sĩ. Người luôn dõi theo và kịp thời nêu gương, biểu dương, khuyến khích và tặng huy hiệu cho những thương binh khắc phục đau yếu, thương tật, có nghị lực vươn lên trong cuộc sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn động viên anh chị em thương bệnh binh phải không ngừng phấn đấu vươn lên để chiến thắng bệnh tật, chiến thắng hoàn cảnh, trở thành: “thương binh tàn nhưng không phế”; từ đó tham gia học tập và lao động sản xuất, góp phần vào công cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước. Người căn dặn thương bệnh binh phải giữ gìn phẩm chất của người chiến sĩ cách mạng, khiêm nhường, biết ơn sự săn sóc của đồng bào, không được ra vẻ công thần, cần cố gắng tự lực cánh sinh. Có những thương bệnh binh có biểu hiện chưa đúng, Bác động viên, nhắc nhở để anh em sửa chữa, phấn đấu tiến bộ: “Nếu anh em nào có sai lầm, như: Công thần, ỷ lại, kém kỷ luật, kém tin tưởng, yêu cầu nhân dân quá đáng, không tích cực công tác… thì nên cố gắng sửa chữa. Đoàn thể và cán bộ thì lấy tinh thần thương yêu và đoàn kết mà giúp những anh em ấy sửa chữa để trở thành những người gương mẫu” [12].
Trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại cho muôn đời sau, Bác căn dặn toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hoàn toàn thắng lợi, công việc đầu tiên chính là chăm lo cho thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình… Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương… cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ)… chính quyền địa phương… phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét” [13].
Có thể nói, ở mọi lúc, mọi nơi, mọi thời điểm, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho thương binh, liệt sỹ những tình cảm, sự quan tâm đặc biệt nhất. Tình cảm đó không chỉ là những lời kêu gọi mộc mạc, chân thành, giản dị mà còn thể hiện qua hành động cụ thể đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ.
Thấm nhuần tư tưởng của Người, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội. Trong đó, tăng cường quản lý, phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người” [14]. Đây chính là sự nhận thức nhất quán của Đảng, Nhà nước về vai trò, vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng đối với các chính sách xã hội nói chung và đối với thương binh, liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng nói riêng.
Bên cạnh việc hoàn thiện chính sách, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới công tác tôn vinh các anh hùng liệt sĩ, biểu dương những thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng vượt lên khó khăn, đạt nhiều thành tích xuất sắc trong cuộc sống; tuyên truyền để các tầng lớp nhân dân nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác thương binh, liệt sĩ và người có công, cũng như chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để phong trào Đền ơn đáp nghĩa ngày càng được xã hội hóa sâu rộng.
Với truyền thống, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, Nhân dân ta trên khắp mọi miền đất nước đã cùng với Đảng, Nhà nước, các ban ngành, đoàn thể, các cấp thực hiện tốt các chính sách xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của thương binh, bệnh binh và gia đình có công, như: tặng quà cho các gia đình có công với cách mạng, gia đình chính sách; xây nhà tình nghĩa, lập quỹ đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng các mẹ Việt Nam anh hùng, ủng hộ và giúp đỡ các nạn nhân nhiễm chất độc da cam… Đó là tình cảm, trách nhiệm, là bổn phận của mỗi chúng ta và của toàn xã hội./.
Chú giải:
[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 5, tr.204. [2, 4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.135. [3, 5, 6]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 12, tr.401. [7, 9, 12]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 10, tr.372, 373 [8]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 11, tr.508. [10]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.486. [11]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.205. [13]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.616. [14]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tập 1, tr.147-148.Vương Nga
- HỘI CỰU CHIẾN BINH KHU DI TÍCH KIM LIÊN TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG VỀ NGUỒN
- HỘI CỰU CHIẾN KHU DI TÍCH KIM LIÊN
- TẶNG QUÀ CHO NGƯỜI NGHÈO – NGHĨA CỬ CAO ĐẸP
- ĐOÀN ĐẠI BIỂU BAN ĐỐI NGOẠI TRUNG ƯƠNG VIỆT NAM – LÀO TỔ CHỨC DÂNG HOA, DÂNG HƯƠNG TẠI KHU DI TÍCH KIM LIÊN
- KHU DI TÍCH KIM LIÊN TỔ CHỨC NÓI CHUYỆN CHUYÊN ĐỀ TẠI TRUNG ĐOÀN 764
555