BÁC HỒ – TẤM GƯƠNG HỌC TẬP CỦA THẾ HỆ TRẺ

      Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, ngày 21-10-1964. Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh.

     Chủ tịch Hồ Chí Minh người được tổ chức UNESCO tôn vinh Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất. Người là tấm gương sáng về mọi mặt để mỗi một người dân Việt Nam từ thế hệ này đến thế hệ khác học tập và noi theo, đặc biệt là tấm gương học tập của Người.

     Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo hiếu học, coi trọng những giá trị đạo đức truyền thống và luôn dành sự quan tâm nhất đến việc giáo dục và học tập.

     Từ thủa thơ bé ở Làng Chùa quê mẹ, ngày ngày Người tận mắt chứng kiến cảnh ông ngoại – một thầy đồ luôn tận tâm với các thế hệ học trò; tấm gương miệt mài khổ học suốt bao năm của cha; lời ru của mẹ, truyện kể của bà là những bài học về cội nguồn lịch sử, điển tích văn chương và đạo lý làm người…Truyền thống tốt đẹp của gia đình, của quê hương xứ Nghệ đã ươm mầm, nảy nở niềm say mê học tập, sau này Người đã học tập không ngừng nghỉ  suốt cả cuộc đời.

     Người thầy đầu tiên của Nguyễn Sinh Cung (tên khai sinh của Bác Hồ), cũng đồng thời là người cha Nguyễn Sinh Sắc, một tấm gương sáng về ý chí vượt khó vươn lên trong học vấn và người thầy mẫu mực trong dạy chữ và dạy người. Được cha dạy cho học sách thánh hiền, Nguyễn Sinh Cung học đâu nhớ đấy, còn luôn luôn luận ra nhiều chuyện, đối chiếu với những điều mắt thấy tai nghe trái với đạo lý ở đất kinh kỳ mà hỏi cha, được cha trả lời và giảng giải cặn kẽ. Hằng ngày cậu dậy sớm quét dọn nhà cửa rồi ôn bài, sáng chiều giúp mẹ lao động, tối còn tập đọc, tập viết tới khuya.  Những bài học mà cha dạy là những bài học thực tế, những trải nghiệm quý giá góp phần định hình con đường đi của cậu Nguyễn Tất Thành sau này.

     Sau khi mẹ mất, Người theo cha từ Huế trở về quê nhà nương nhờ bà ngoại, sau đó ông Nguyễn Sinh Sắc lại tiếp tục vào kinh thi Hội. Một lần, Nguyễn Sinh Cung vào lớp học của cử nhân Vương Thúc Độ chơi và hỏi nhiều về những chữ nghĩa ông Độ viết trên xà nhà. Thấy cậu bé lễ phép, thông minh, lanh lợi, ông Độ đã gặp bà ngoại Nguyễn Sinh Cung là cụ Kép khuyên nên cho theo học lớp của thầy Hoàng Phan Quỳnh làng Hữu Biệt. Học ở đây, Nguyễn Sinh Cung sớm bộc lộ là người học trò nhanh trí, có tinh thần tương thân tương ái. Sau một thời gian, thầy giáo Quỳnh thuyết phục cụ Kép cho Nguyễn Sinh Cung ở lại trong nhà để vừa làm bạn với 2 trò là con thầy Quỳnh, vừa tiện bề học tập.

     Thời gian mà Nguyễn Sinh Cung học ở lớp của thầy Hoàng Phan Quỳnh tuy ngắn (gần 8 tháng trong năm 1901) nhưng đã để lại hình ảnh đẹp và khó phai mờ trong tâm trí thầy giáo cũng như học trò. Hình ảnh người thầy đáng kính mãi in đậm vào tâm trí Bác. Chính vì thế hơn nửa thế kỷ sau, trong dịp về thăm quê lần thứ 2 (tháng 6/ 1961) lúc đi qua làng Hữu Biệt (nay thuộc xã Nam Giang, huyện Nam Đàn), Bác đã chỉ vào làng và nói với đồng chí Võ Thúc Đồng (Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư tỉnh ủy Nghệ An): “Thủa bé mình có học với thầy đồ trong làng này”.

     Khi về sống tại Làng Sen quê cha, Bác (lúc này tên là Nguyễn Tất Thành) theo học Thầy Vương Thúc Quý. Thầy không dạy theo lối sách vở, tầm chương, trích cú, mà mượn những đoạn văn tích cực để dạy cho học trò về đạo lý làm người, biết sống ích nước lợi dân, ca ngợi nghĩa khí của các bậc anh hùng đã xả thân vì nghĩa lớn và nguyền rủa quân thù cướp nước. Để nung nấu lòng yêu nước và căm thù giặc cho học trò, hằng ngày thầy thường xuyên thắp đèn, đốt hương trên bàn thờ cha trước lúc giảng bài. Có lần khi thắp đèn, thầy sơ ý để đổ dầu trên bàn thờ. Nhân việc này, thầy ra một vế đối để muốn học trò tỏ rõ cảm thụ của mình. Vế câu đối đó là: “Thắp đèn lên, dầu vương ra đế”. Một trò đã nhạy cảm đối ngay: “Đốt hương rồi, gió quạt tàn bay”. Các bạn khen vế đối hay. Riêng Nguyễn Tất Thành cũng làm một vế đối có nội dung cảm thụ sâu xa như gợi ý của thầy: “Cưỡi ngựa dong thẳng Tấn lên Đường”, vừa có nghĩa là thẳng tiến lên đường, tỏ rõ chí nguyện của mình, mà vừa có nghĩa nhà Tấn lập ngôi vua, nhà Đường lập ngôi đế. Thầy Quý nhớ mãi vế đối này và lúc tiễn cha con ông Phó bảng lên đường vào Huế lần thứ hai, thầy đã nhắc lại và chúc trò “lên đường thẳng tiến”, vững tin ở tương lai của cậu.

     Ngoài ra, Nguyễn Tất Thành còn được học hỏi rất nhiều điều từ những người bạn tâm huyết của ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đó là những nhà nho, chí sỹ yêu nước nổi tiếng trong vùng.

     Tất Thành cùng với anh trai của mình là Tất Đạt được cha cho xuống Vinh học trường tiểu học Pháp – bản xứ. Chính tại ngôi trường này, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc với văn hoá phương Tây và lần đầu tiên biết đến ba từ: Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Sau này Người nhắc lại: Vào trạc tuổi mười ba lần đầu tiên tôi được nghe những từ Pháp: Tự do – Bình đẳng – Bác ái…và thế là tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những từ ấy”. Không phải vì căm hận những hành động của Pháp ở Việt Nam mà phủ nhận nền văn minh thực sự của nước Pháp, cậu đã say mê tìm hiểu toàn diện cuộc cách mạng tư sản Pháp, nhà triết học Pháp của thế kỷ ánh sáng như Voltaire, Monterquieu, Rousseau … tiếp cận với đỉnh cao của văn hóa nhân loại, tri thức của Nguyễn Tất Thành càng dồi dào phong phú,  Nguyễn Tất Thành đã có cơ hội được nâng cao nhận thức, trí tuệ, góp phần hình thành tư tưởng yêu nước của người sau này.

     Tháng 9/1906, Tất Thành cùng anh trai là Tất Đạt bắt đầu học Trường Đông Ba, trường Tiểu học Pháp – Việt của tỉnh Thừa Thiên. Kỳ thi tốt nghiệp niên khóa 1906-1907, Tất Thành là một trong những thí sinh có điểm ưu tú.

     Năm 1907-1908, Tất Thành cùng anh trai trúng tuyển vào “thiên đường trường học” – Trường Quốc học Huế. Tại đây Người học được rất nhiều, nhất là lịch sử Pháp, biết đến cách mạng tư sản Pháp (1789), Nguyễn Tất Thành lại càng  muốn đi sâu tìm hiểu nguồn gốc phát sinh và ý nghĩa sâu xa 3 từ thiêng liêng “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” và anh bắt đầu ham học lịch sử thế giới. Nhìn vào thực trạng triều đình Huế, liên hệ với lập luận này các nhà khai sáng Pháp phanh phui về chế độ phong kiến. Từ đây ý thức chống phong kiến, phủ nhận vua trong anh dần ươm mầm và phát triển.

     Đầu tháng 7/1909, Người ở  nhà Thầy giáo Phạm Ngọc Thọ ở Quy Nhơn, Bình Định bồi dưỡng thêm vốn Tiếng Pháp. Qua đó chúng ta có thể thấy rất rõ ý chí và quyết tâm học tập của Người. Còn tinh thần tự học có thể thấy ngay từ việc Người luôn tranh thủ thời gian học tập mọi lúc mọi nơi và có thể học với bất kỳ người nào.

     Mùa hè năm 1911, Người đặt chân đến nước Pháp xa xôi để tìm con đường cứu nước, cứu dân. Người đã đặt quyết tâm “Nhất định phải học nói, học viết cho kỳ được”. Ngay khi còn lênh đênh trên con tàu sang Pháp mỗi lúc rảnh rỗi, Bác thường tìm đến hai người lính trẻ đi cùng chuyến tàu nhờ hướng dẫn đọc và viết tiếng Pháp. Họ cho Bác mượn những quyển sách nhỏ in tiếng Pháp. Muốn biết rõ về cái gì, muốn biết đồ vật nào đó viết bằng tiếng Pháp ra sao, Bác đều dùng tay diễn tả. Tối tối, Bác ghi lại những từ mới vào sổ. Học được từ nào, Bác ghép chúng lại thành câu và thực hành luôn.

     Ban đầu, Bác tập ghép một vài từ, sau ghép thành đoạn, dần dần Người tập viết thành từng bài. Sau một thời gian thu xếp ổn định chỗ ở và công việc trên đất Pháp, Bác tìm đến các tờ báo của Pháp xin được tham gia viết bài đăng báo. Trong những lần gửi bài, Bác nói với mọi người trong tòa soạn rằng: “Tôi rất sung sướng nếu bài viết này của tôi được đăng, nhưng dù thế nào cũng xin các đồng chí sửa lỗi tiếng Pháp cho tôi”. Mỗi lần bài viết của Bác được đăng, Bác vui mừng khôn xiết. Theo hướng dẫn của các chủ bút, Bác luôn xem lại từng câu, từng chữ, xem bài viết của mình đúng sai chỗ nào, toà soạn báo đã sửa lại cho mình ra sao? Bác tập viết đi viết lại, khi viết diễn giải ra cho dài, cụ thể và chi tiết, lúc lại là những đoạn văn ngắn và súc tích.

     Sau mỗi ngày làm việc, dù công việc bận đến đâu, Bác vẫn tranh thủ đọc vài trang tiểu thuyết, vừa giải trí, thư giãn đầu óc lại vừa trau dồi kiến thức, học thêm cách viết. Bác tập viết những bài phóng sự. Sáng nào Bác cũng dậy sớm, bắt tay vào viết từ 5 giờ đến khoảng 6 giờ rưỡi. 7 giờ sáng, Bác lại đi làm bình thường. Dù trời nóng hay rét, Bác cũng không nản chí. Thời gian cứ thấm thoắt trôi đi, đến năm 1922, Bác đã trở thành chủ bút của tờ báo “Người cùng khổ” viết bằng 3 thứ tiếng. Tên báo bằng tiếng Pháp đặt ở giữa, tiếng Ả Rập bên trái và bên phải là chữ Hán, tất cả đều do Bác viết. Do tòa soạn báo không có Ban biên tập cố định nên nhiều khi Bác phải “cáng đáng” mọi việc từ khâu sửa chữa, biên tập, đọc morat tới bán báo.

    Bằng phương pháp tự học như vậy, Bác đã học được 6 ngoại ngữ, đó là: Tiếng Anh, Tiếng Pháp, Trung Quốc, Ý, Đức, Nga; Ngoài ra Người còn có thể giao tiếp bằng ngôn ngữ nhiều quốc gia khác trên thế giới và tiếng một số dân tộc thiểu số Việt Nam mình. Bác từng nói: “Biết tiếng nước người, ta dễ gây cảm tình lắm, gặp người dân thường mình cũng nói chuyện được dăm ba câu, nói được thì gây ảnh hưởng tốt lắm!”.

     Để trang bị cho mình kiến thức toàn diện về văn học, lịch sử, địa lý và văn hoá nghệ thuật các quốc gia, dân tộc nơi Bác có dịp đặt chân đến, Người thường dành thời gian đến thư viện, thăm các bảo tàng, các công xưởng nghệ thuật và tham gia vào các hội như hội du lịch, hội văn hoá nghệ thuật… Người thường tham dự mít tinh và tham gia vào các buổi diễn thuyết.  Để nâng cao trình độ chính trị, văn học, để có điều kiện vận dụng, làm phong phú thêm từ ngữ đã học, nâng cao trình  ngoại ngữ Người kết thân với các danh hào, văn sỹ nổi tiếng, có tầm ảnh hưởng trên thế giới như: nhà văn Henri, Vua hài Sáclơ, danh hoạ Picasso…

     Từ khi bắt gặp luận cương của Lê Nin, tiếp thu tư tưởng của Lê Nin “Học, học nữa, học mãi”, Người coi việc học là cuốn sách không có trang cuối cùng. Thời gian này người theo học các trường: Đại học Phương Đông (1923), Đại học Quốc tế Lênin (1934), Nghiên cứu sinh các vấn đề về dân tộc và thuộc địa (1937).

    Năm 1941, Người trở về trực tiếp lãnh đạo cách mạng và trở thành Chủ tịch nước. Trên cương vị cao nhất của Đảng và Nhà nước dù bận trăm công ngàn việc, dù tuổi cao sức khỏe giảm Người vẫn không ngừng học tập, không ngừng tiếp thu cái hay cái mới cho bản thân và đất nước. Người thường nghiên cứu thêm nhiều sách báo,  trong nước và nước ngoài; vì vậy nơi làm việc và nơi ở của Bác luôn nhiều sách báo tài liệu. Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rằng, “giặc dốt” đáng sợ không kém gì “giặc đói”. Con đường để Việt Nam tiến lên, để non sông gấm vóc được tươi đẹp trường tồn chỉ có thể là con đường của khoa học, của tri thức. Biết người, hiểu người – biết ta, hiểu ta, thì mới có thể đánh thắng được kẻ thù, mới giữ vị thế chủ động trên bàn đàm phán, mới có sức mạnh tuyệt đối để đi đến ngày thống nhất nước nhà.

    Người đã đi xa, nhưng tinh thần, ý chí học tập và tự học tập của Người mãi mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ. Tấm gương tự học của Người không chỉ ở tinh thần, thái độ cầu tiến trong học tập mà còn thể hiện ở tư duy học tập nghiêm túc, có nền tảng, có tính khoa học; có mục tiêu, kế hoạch cụ thể, có phương thức hành động rõ ràng, có sự kiên trì, bền bỉ, có nỗ lực sáng tạo đổi mới, được nâng tầm thành một triết lý nhân sinh và nghệ thuật rèn luyện. Con đường tự học và tinh thần học tập của Bác đã và luôn là bài học quý cho mỗi người Việt Nam hiện nay.

     Tấm gương tự học, ham học, ham tìm hiểu của Người là nguồn cổ vũ, nguồn cảm hứng vô tận cho mỗi người dân Việt Nam xây dựng xã hội học tập hiện nay. Câu chuyện “Bác Hồ với tinh thần tự học” nhắc nhở chúng ta, mỗi một người dân Việt Nam nói chung, viên chức, người lao động làm việc tại Khu di tích Kim Liên nói riêng luôn phải dành thời gian học tập theo tinh thần tự học của Bác, góp phần hoàn thiện bản thân, nâng cao trình độ mọi mặt, xử lý và hoàn thành một cách tốt nhất những công việc được giao, góp phần vào sự nghiệp phát chung của quê hương, đất nước.

                                                                                              Thanh Huyền

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *