Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm kè bảo vệ sông Đà ở Cổ Đô, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây, ngày 8/7/1958. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh).
Việt Nam có vị trí địa lý đặc thù và địa hình phức tạp, hàng năm phải đối mặt với rất nhiều loại hình thiên tai, đặc biệt là bão, lũ lụt, lũ quét, sạt lở, hạn hán. Thiên tai không những gây tổn thất về kinh tế, cơ sở vật chất, giảm tăng trưởng GDP mà còn trực tiếp cướp đi sinh mạng của nhiều người dân, đẩy một bộ phận dân nghèo quay trở lại cảnh nghèo đói. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Nếu lụt thì đói. Lụt cũng là một thứ giặc ghê gớm. Người ta thường nói “thủy, hỏa, đạo, tặc”. Chúng ta phải ra sức ngăn giặc lụt cũng như chống giặc ngoại xâm” [1].
- Tập trung phòng chống thiên tai
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm phòng chống thiên tai, ngay từ khi bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã từng chỉ rõ: Không chỉ áp bức bóc lột người dân thuộc địa, những kẻ khai hóa văn minh còn không quan tâm phòng chống thiên tai, khiến cho thiên tai cùng với ách thống trị của chúng đã là những nguyên nhân quan trọng, gây ra nạn đói và cảnh khốn cùng cho người dân thuộc địa, đẩy cuộc sống của “những kẻ nô lệ” vốn đã tăm tối lại rơi vào cảnh khốn cùng hơn: “Vào tháng 10, nhiều tỉnh đã bị lụt và bão tàn phá. Những sự thiệt hại không được rõ; Chính phủ không muốn cho biết điều này. Theo những thông tin cá nhân thì có tới nửa số dân bị chết đuối hay chết đói. Trừ Nam kỳ, sự khốn cùng ngự trị ở khắp nơi [2].
Công tác phòng chống thiên tai là một cuộc chiến hết sức gay go, gian khổ. Để chống lại “thứ giặc ghê gớm” đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã đặc biệt quan tâm phòng chống thiên tai. Không chỉ tham dự các cuộc họp của Trung ương Đảng, của Hội đồng Chính phủ về thủy lợi, tham dự nhiều hội nghị của ngành Thủy lợi Trung ương và các địa phương, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chú trọng việc phát động phong trào toàn dân làm thủy lợi, thường xuyên khuyến khích phong trào đắp đê, xây kè, chống hạn… Người thường dành thời gian đi kiểm tra, đôn đốc việc xây dựng, sửa chữa các công trình thủy nông, đê điều, tham gia động viên tát nước chống hạn, chống úng với bà con nông dân và cán bộ các địa phương.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tát nước chống hạn với bà con nông dân ở cánh đồng Quai Chảo, xã Đại Thanh, huyện Thường Tín, Hà Đông, ngày 12/1/1958. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh).
Bên cạnh đưa ra các quyết sách chống giặc ngoại xâm, tiêu diệt “giặc dốt”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến các biện pháp, các hình thức để chống “giặc đói” cho nhân dân. Theo Người, để chống và tiến tới tiêu diệt “giặc đói” biện pháp cấp thiết đầu tiên là phải củng cố hệ thống đê điều.
Ngày 10/11/1946, về thăm thị xã Hưng Yên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chúng tôi xuống đây có hai việc: trước hết là để thăm đồng bào Hưng Yên, thứ hai là để thăm đê… Bây giờ ta được độc lập, công việc đắp đê không phải là việc riêng của Chính phủ, mà là của tất cả mọi quốc dân…, cho nên mọi người đều phải sốt sắng giúp vào việc đắp đê… Chỉ có cách đó là có thể ngăn ngừa được nạn đê vỡ. Nước sông cao bao nhiêu đi nữa, mà lòng nhiệt tâm của các bạn cao hơn thì không bao giờ có lụt nữa” [3].
Ngày 22/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 70/SL, thành lập tại Bắc bộ “Ủy ban Trung ương hộ đê có nhiệm vụ nghiên cứu, đề nghị mọi kế hoạch chống nạn lụt và kiểm soát việc bảo vệ đê điều”, đồng thời giao cho Chủ tịch Ủy ban Hành chính Bắc bộ đứng đầu và tổ chức, thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước đối với một trong những lĩnh vực quan trọng hàng đầu liên quan đến thủy lợi và trị thủy của một quốc gia nông nghiệp. Không chỉ vậy, trong các bài viết “Gửi đồng bào các tỉnh có đê” ngày 15/6/1950; “Thư gửi đồng bào các tỉnh có đê” ngày 2/6/1952, “Ra sức giữ đê phòng lụt” ngày 16/7/1953; “Thư gửi toàn thể đồng bào, bộ đội và cán bộ về việc phòng và chống lụt, bão” ngày 10/12/1957… Chủ tịch Hồ Chí Minh một mặt chỉ rõ tác hại của thiên tai, mặt khác thường xuyên quan tâm, nhắc nhở, động viên nhân dân cả nước nói chung và đồng bào các tỉnh có hệ thống đê điều nói riêng hãy quan tâm đến công tác phòng chống thiên tai, để giảm thiểu lũ lụt, hạn hán.
Động viên đồng bào các tỉnh có đê, Người viết: “Mùa nước lũ sắp đến… đồng bào Trung du Bắc bộ và Bắc Trung bộ đã bắt đầu đắp đê và chuẩn bị hộ đê… Đánh giặc để giữ làng, giữ nước. Đắp đê, hộ đê để bảo vệ mùa màng… Mấy năm trước, chúng ta đã thắng giặc lụt. Tôi kêu gọi đồng bào và bộ đội ra sức giữ vững đê điều” [4]. Để giúp người dân vùng bị thiên tai sớm ổn định đời sống, sản xuất, ngày 14/6/1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 96/SL, sửa đổi bản “Điều lệ tạm thời thuế nông nghiệp”, trong đó quy định những vùng bị thiên tai, địch họa thì tùy theo mức độ thiệt hại sẽ được giảm hoặc miễn thuế. Quan tâm tình hình thiên tai trên cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời thăm hỏi, động viên cán bộ và nhân dân những vùng bị thiệt hại nặng do bão lũ, do hạn hán. Trong những năm đất nước còn tạm thời bị chia cắt, khi miền Nam bị bão lụt xảy ra liên tiếp, ngày 19/11/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư chia sẻ: “Mấy tỉnh miền Nam bị bão lụt dồn dập. Hàng nghìn đồng bào bị hy sinh. Hàng vạn nhà cửa bọ đổ nát. Làng mạc xơ xác, vườn ruộng tơi bời. Máu chảy ruột mềm, được tin tức đó, tôi và toàn thể đồng bào miền Bắc rất là đau xót như muối xát vào lòng” [5].
Trong bài “Ra sức giữ đê phòng lụt”, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Giặc lụt là tiên phong của giặc đói. Nó là đồng minh của giặc ngoại xâm… Đắp đê, giữ đê là để chống giặc lụt và giặc đói, cho nên cũng như một chiến dịch” [6]. Và Người không quên nhấn mạnh: “Trong mùa mưa, công việc giữ đê, phòng lụt, chống lụt, phòng bão, chống bão là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của nhân dân, bộ đội và cán bộ, đặc biệt là ở các tỉnh có đê sông và đê biển” [7].
- Các biện pháp phòng chống thiên tai
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn chống thiên tai hiệu quả, trước hết phải cảnh giác, tập trung chuẩn bị trước để phòng chống thiên tai, phải chú ý đến công tác dự báo, đề phòng, chuẩn bị, tuyệt đối không để xảy ra tình trạng “nước đến chân mới nhảy”.
Công tác giữ đê, phòng lụt, chống lụt, phòng bão, chống bão là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng vì lợi ích của mọi người dân. Vì vậy, chống lũ lụt, chống hạn hán phải làm thường xuyên, phải được phát động thành phong trào thi đua và trong quá trình thực hiện, nhất định phải “có thưởng, có phạt”. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên khen ngợi những cá nhân, những tập thể có thành tích trong công tác phòng chống thiên tai. Ngày 1/4/1957, Người ký Sắc lệnh số 013/SL, tặng Huân chương Lao động Hạng Nhất cho cán bộ và nhân dân tỉnh Kiến An (nay thuộc Hải Phòng) đã có thành tích dẫn đầu về phòng chống thiên tai năm 1956. Ngày 11/9/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 102/LCT, tặng 4 Huân chương Lao động Hạng Ba cho nhân dân, cán bộ và lực lượng vũ trang tại các tỉnh Nghệ An, Nam Hà, Hà Tây và Thái Bình, vì đã có nhiều thành tích trong công tác phòng chống bão lụt, bảo vệ đê điều và các công tác thủy lợi trong năm 1966… Đồng thời, Người cũng nghiêm khắc phê bình những cá nhân, những địa phương chưa làm tốt công tác phòng chống thiên tai.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói, thiên tai là một loại giặc, giặc “tiên phong của đói và nghèo”, nên phòng chống thiên tai không chỉ là củng cố, bảo vệ đê điều, chống hạn hán, lũ lụt: “Muốn chống thiên tai, về mặt kinh tế nói chung thì phải làm tốt thủy lợi để chống hạn, chống úng, tranh thủ được mùa, làm cho đời sống của nhân dân ngày càng tiến lên” [8], mà còn phải chống nạn phá rừng, là tăng cường trồng cây gây rừng, vì: “nếu rừng kiệt thì không còn gỗ và mất nguồn nước thì ruộng nương mất màu, gây ra lụt lội và hạn hán. Vì vậy, đồng bào miền núi và trung du cũng như đồng bào miền xuôi lên tham gia phát triển kinh tế ở đây phải bảo vệ rừng như bảo vệ nhà cửa của mình” [9]. Do đó, muốn chống thiên tai có hiệu quả, các cấp chính quyền phải có kế hoạch cụ thể, khoa học, phải có sự phân công rõ ràng, kiểm tra, đôn đốc chu đáo: “Trong việc đắp đê, giữ đê, kế hoạch phải rất tỉ mỉ, phân công phải rất rành mạch, chuẩn bị phải rất chu đáo, lãnh đạo phải rất thống nhất. Cán bộ quân, dân, chính, Đảng những vùng ấy phải xem việc đắp đê, giữ đê là việc chính. Phối hợp thật chặt chẽ. Chỉ đạo phải thật thiết thực. Tổ chức phải thật đầy đủ. Tuyệt đối chống cách khoán trắng, chống quan liêu, mệnh lệnh” [10].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một phương án phòng chống thiên tai tốt không chỉ là sản phẩm trí tuệ của người cán bộ chuyên trách, đó còn là sự vận dụng kinh nghiệm thực tiễn, nên nó sẽ hoàn chỉnh hơn, hiệu quả hơn khi tranh thủ được ý kiến của nhân dân, vì thế: “cán bộ các cấp phải nhận thức rõ trách nhiệm, phải có kế hoạch thiết thực và đầy đủ, phải đi sát với nhân dân” [11], đồng thời: “Cán bộ phải đi xuống cơ sở cùng với đồng bào bàn kế hoạch và thực hiện kế hoạch phòng và chống lụt, bão cho tốt” [12].
Phòng chống thiên tai cần có sự góp sức của toàn dân, sự quan tâm của toàn xã hội. Vì vậy, một trong những nhân tố quan trọng là phải có tinh thần đoàn kết, đồng lòng, đồng sức giữa các lực lượng để quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, giúp đỡ nhau chiến thắng thiên tai. Trong cuộc chiến đầy cam go giữa một bên là sức người, một bên là sự khắc nghiệt, tàn phá của thiên nhiên, không chỉ phát huy vai trò gương mẫu của người cán bộ đảng viên “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, không chỉ huy động lực lượng tại chỗ, mà còn phải phát huy sức mạnh tinh thần đoàn kết giữa nhân dân các tỉnh lân cận, nhất là “cán bộ và đồng bào các tỉnh gần nhau phải phối hợp chặt chẽ, tích cực giúp đỡ nhau phòng và chống lụt, bão” [13]. “Nông hội và thanh niên phải xung phong làm gương mẫu. Bộ đội phải tranh thủ thời gian giúp đỡ nhân dân” [14]…
- Phòng chống thiên tai theo chỉ dẫn của Bác
Từ những quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phòng chống thiên tai, có thể thấy rằng, không chỉ coi thiên tai là một loại giặc, không chỉ quyết tâm phòng, chống và chiến thắng loại giặc đó, chúng ta còn phải biết vận dụng, kết hợp giữa tri thức của khoa học kỹ thuật tiên tiến với những kinh nghiệm cổ truyền về dự báo, về phòng chống lũ lụt và tiến hành chống thiên tai. Đồng thời, trong mọi thời điểm đều phải hết sức tránh lối làm việc kinh nghiệm chủ nghĩa, và trong công tác phòng chống thiên tai thì phải tính toán cho tốt.
Những năm gần đây, dưới ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai càng ngày càng trở nên khốc liệt hơn về cường độ, sức tàn phá, đang ngày càng ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân các nước, trong đó có Việt Nam. Theo Báo cáo của Liên hợp quốc “người dân châu Á có khả năng bị ảnh hưởng của thiên tai gấp 4 lần so với châu Phi, gấp 25 lần so với châu Âu và Bắc Mỹ”. Thực tế cho thấy, cơn bão số 3 (YAGI) vừa qua, Việt Nam đã phải hứng chịu và thiệt hại quá nặng nề.
Theo Cục Quản lý đê điều và phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), do ảnh hưởng của bão số 3 (YAGI) và mưa lũ sau bão, các địa phương đã thống kê thiệt hại tính đến 17h ngày 12/9, bão số 3 và mưa lũ đã khiến 330 người chết và mất tích (226 người chết, 104 người mất tích); tăng 3 người so với thống kê lúc 12h30′ cùng ngày.
Tại các địa phương bão đi qua, hàng chục nghìn ngôi nhà bị sập, đổ, tốc mái, hư hỏng nặng. Nhiều tuyến giao thông, trường học, cơ sở y tế, công trình công cộng bị hư hỏng nặng, tài sản bị cuốn trôi… Ước tính thiệt hại do bão số 3 lên tới hàng chục nghìn tỉ đồng.
Hiện nay, tại một số địa phương như Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn… đời sống người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi tình hình lũ lụt, sạt lở. Hơn lúc nào hết, người dân những vùng bị thiên tai, lũ lụt đang rất cần sự quan tâm, cứu trợ từ các cấp, các ngành và toàn xã hội.
Với tinh thần “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách”, nhằm góp thêm nguồn lực hỗ trợ đồng bào khắc phục thiệt hại do cơn bão số 3 gây ra, rất nhiều cơ quan, đơn vị, trường học… đã ủng hộ cho nhân dân vùng bão, lũ. Đặc biệt, ngày 11/9, lãnh đạo Khu di tích Kim Liên kêu gọi toàn thể viên chức, người lao động cơ quan chung tay góp sức, mỗi người ít nhất một ngày lương, ủng hộ về tinh thần và vật chất để giúp đỡ nhân dân các tỉnh bị thiệt hại do bão lũ vượt qua khó khăn, nhanh chóng ổn định cuộc sống.
Khu di tích Kim Liên ủng hộ đồng bào các tỉnh phía Bắc bị thiệt hại do bão lũ.
Thực hiện theo những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với Việt Nam, phòng chống thiên tai, chống biến đổi khí hậu, càng ngày càng nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền và cả cộng đồng. Thực tế cho thấy, đê sông, đê biển, an toàn hồ chứa, trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, khu neo đậu cho tàu thuyền tránh, trú bão; Tổ chức chương trình phòng tránh ngập úng cho các thành phố lớn; Rà soát quy hoạch thủy lợi trong điều kiện tác động của biến đổi khí hậu, xây dụng kế hoạch phòng chống thiên tai; Tổ chức hội thảo kỹ thuật, Diễn đàn Quốc gia về giảm nhẹ rủi ro thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; Phối hợp triển khai nghiên cứu xây dựng Luật phòng chống và giảm nhẹ thiên tai… đã được thực hiện khá tốt, để vừa tích cực phòng chống thiên tai, vừa giảm thiểu đến mức thấp nhất tác hại, tác động của thiên tai đến cuộc sống của người dân./.
Chú giải:
[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 5, tr.188 [2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 2, tr.11 [3]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.177 [4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.417 [5, 9]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 14, tr.418, 294 [6, 10]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.166 [7, 11, 14]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 10, tr.596 [8, 12, 13]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 13, tr.251, 548VƯƠNG NGA
- LỄ GIỖ BÀ HOÀNG THỊ LOAN LẦN THỨ 118
- Tư tưởng trọng nông của Hồ Chí Minh: Nhìn từ thực tế xưa và nay
- KHU DI TÍCH KIM LIÊN – ĐỊA CHỈ ĐỎ VỀ GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC, CÁCH MẠNG
- BÁC HỒ QUAN TÂM TẶNG THƯỞNG HUY HIỆU CHO NHỮNG PHỤ NỮ LÀM VIỆC TỐT
- TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO LÀO VÀ VIỆT NAM VỀ THĂM KHU DI TÍCH KIM LIÊN