BÁC HỒ VỚI ĐÁ CHÔNG – K9

   Bác Hồ ngồi nghỉ trưa tại Đá Chông – Ba vì (Hà Tây, ngày 19/5/1957. (Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam).

      Khu di tích Đá Chông có vị trí quan trọng trong việc nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Nhà chiến lược thiên tài, vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam.

  1. Tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh

    Tháng 5 năm 1957, khi đi kiểm tra Sư đoàn 308 diễn tập bên sông Đà, thấy khu vực Đá Chông phong cảnh đẹp, khí hậu mát mẻ, thuận lợi về nhiều mặt, Bác Hồ đã trao đổi với các đồng chí trong Đoàn muốn chọn nơi đây làm khu căn cứ của Trung ương.

    Sáng ngày 23 tháng 2 năm 1958, Bác Hồ lên xem lại địa bàn khu vực Đá Chông. Cùng đi với Bác có đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Ủy viên Trung ương Đảng và một số đồng chí khác.

    Sau đó, Tổng Cục Hậu cần quân đội được giao nhiệm vụ thiết kế, xây dựng khu căn cứ. Công trình được chuẩn bị từ tháng 6, đến tháng 9 năm 1959 tiến hành khởi công xây dựng. Theo gợi ý của Bác, Khu căn cứ của Trung ương chia làm 3 khu vực: Khu A dành cho Bộ Chính trị họp và tiếp khách; Khu B dành cho các đồng chí lãnh đạo nghỉ; Khu C dành cho các đồng chí bảo vệ và phục vụ. Để đảm bảo bí mật, trong quá trình xây dựng, khu căn cứ được mang mật danh “Công trường 5”. Quá trình thi công, Bác Hồ lên thăm và kiểm tra một số lần: “Nhân dân và công nhân xây dựng tham gia thi công không biết là công trình gì mà Bác Hồ lên thăm 2, 3 lần” [1].

     Khu di tích Đá Chông – Công trường 5 chứa đựng những thông tin quý giá về tầm vóc chiến lược của Bác Hồ và Trung ương Đảng ta trong việc lựa chọn và xây dựng cơ sở căn cứ địa – ATK trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

     Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Chính phủ Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơnevơ, rút quân khỏi Việt Nam. Đây là lần đầu tiên về mặt pháp lý quốc tế thế giới công nhận một nước Việt Nam độc lập, có chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không thể chia cắt. Song đế quốc Mỹ đã phá hoại Hiệp định Giơnevơ, xâm lược miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến tranh đơn phương do Mỹ tiến hành bắt đầu diễn ra rất quyết liệt ở phía Nam của Tổ quốc. Cách mạng miền Nam đang đứng trước những khó khăn, thử thách vô cùng to lớn. Ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng giành hết tâm sức, tài trí đưa ra giải pháp chiến lược cách mạng phù hợp cho cả hai miền. Nghị quyết Trung ương 14 (1/1959) và sau đó là Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960) đã khẳng định đường lối chiến lược bao trùm của cách mạng là: Chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc.

     Với trách nhiệm cao nhất trước nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã đề ra đường lối kiên định mục tiêu lãnh đạo và tổ chức cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện… Trong đó, việc chuẩn bị xây dựng căn cứ địa ATK cho cơ quan đầu não nhằm đối phó lâu dài, hiệu quả với cuộc chiến tranh phá hoại chủ yếu bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ ra miền Bắc nhằm “Kéo lùi miền Bắc Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá”.

     Chủ tịch Hồ Chí Minh là người chỉ đạo trực tiếp từ việc lựa chọn địa điểm, nêu yêu cầu khi thiết kế và theo dõi, kiểm tra khi thi công xây dựng Công trường 5. Để chuẩn bị kháng chiến lâu dài, đầu tháng 12 năm 1946, “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao nhiệm vụ cho ông Nguyễn Lương Bằng chuẩn bị mọi mặt cho việc di chuyển cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước khi cần thiết” [2].

     Những công trình như hầm trú ẩn, máy phát điện cung cấp riêng cho các hoạt động trong khu Công trường 5 – Đá Chông… được xây dựng đồng thời với nhà ở, nhà làm việc và các công trình phụ cận khác như: cảng đường sông, sân bay trực thăng, đường dốc trải sỏi cuội xuống sông Đà và hệ thống giao thông trong khu vực là sự cân nhắc kỹ, phù hợp với thực tiễn phải đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân của Mỹ.

     Thể hiện vị trí chiến lược là nơi bảo đảm an toàn tuyệt đối của khu vực Đá Chông, từ năm 1957 đến năm 1975, khu Công trường 5 diễn ra rất nhiều hoạt động: Bác tìm chọn địa điểm, Bác lên nhiều lần, nhiều cuộc họp, tiếp khách quốc tế; nhiều lực lượng tham gia… Nhưng khu Công trường 5 vẫn đảm bảo tuyệt đối bí mật, cơ sở vật chất được quản lý chặt chẽ, giữ gìn hầu như nguyên vẹn. Đặc biệt, từ năm 1964 – 1972, đế quốc Mỹ đã sử dụng không quân, với các pháo đài bay và các phương tiện hiện đại, sử dụng hàng triệu tấn bom đạn cày xới khắp các nơi, nhất là những nơi nghi ngờ là căn cứ của Trung ương ở miền Bắc Việt Nam. Nhưng khu vực Đá Chông không hề bị ảnh hưởng do bom đạn của máy bay địch phá hoại.

     2. Nơi làm việc, tiếp khách và nghỉ ngơi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng

Ngôi nhà 2 tầng, nơi Bác Hồ đã làm việc và tiếp khách tại K9. (Nguồn: Khu di tích Kim Liên).

    Sáng ngày 28 tháng 1 năm 1960 (tức ngày mồng Một tết năm Canh Tý), Bác Hồ lên Đá Chông (Công trường 5) thăm và chúc tết cán bộ, chiến sĩ bảo vệ và công nhân làm việc trên công trường.

     Ngày 15 tháng 3 năm 1960, ngôi nhà 2 tầng hoàn thành. Bác Hồ đã đi bằng máy bay trực thăng lên dự buổi khánh thành ngôi nhà.

     Đầu tháng 3 năm 1961, Bác Hồ cùng đồng chí Hà Vỹ, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam lên thăm Đá Chông, đồng thời chuẩn bị đón đoàn đại biểu phụ nữ Trung Quốc sang thăm và dự Đại hội Phụ nữ Việt Nam lần thứ III.

     Đầu tháng 3 năm 1961, Bác Hồ đón tiếp Đoàn đại biểu phụ nữ Trung Quốc do bà Đặng Dĩnh Siêu, phu nhân cố Thủ tướng Chu Ân Lai dẫn đầu và đồng chí Hà Vỹ, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam tại Đá Chông. Tại đây, bà Đặng Dĩnh Siêu đã trồng 2 cây ngọc lan, 1 cây quýt và chụp ảnh lưu niệm. Buổi trưa hôm đó, Bác Hồ mời Đoàn đại biểu Phụ nữ Trung Quốc dùng cơm và nghỉ tại nhà khách ở Đá Chông.

     Ngày 23 tháng 1 năm 1962, Bác Hồ cùng Đoàn cán bộ Quân đội Liên Xô do Anh hùng phi công vũ trụ Giec-man Ti-tốp làm Trưởng đoàn đi bằng máy bay trực thăng lên thăm khu vực Đá Chông. Anh hùng Giec-man Ti-tốp trồng 2 cây vàng anh. Buổi trưa hôm đó, Bác Hồ mời Đoàn cán bộ Quân đội Liên Xô dùng cơm và nghỉ tại nhà khách ở Đá Chông.

     Ngày 19 tháng 5 năm 1963, Bác Hồ lên Đá Chông làm việc và nghỉ. Anh em trong tổ bảo vệ và phục vụ tại đây chuẩn bị chúc mừng lần thứ 73 ngày sinh của Bác thì ngay từ sáng sớm Bác xuống thăm nơi ở của anh em. Trong khi Bác đang nghỉ tại ngôi nhà 2 tầng, các đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng và đồng chí Phạm Văn Đồng, Thủ tướng Chính phủ lên thăm. Bác cùng đồng chí Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng ăn cơm trưa, trao đổi công việc. Buổi chiều hôm đó Bác trở về Hà Nội.

     Ngày 5 tháng 8 năm 1964, Bác lên làm việc và nghỉ lại. Ngày 6 tháng 8, Người về Hà Nội và chủ trì cuộc họp quan trọng với các tướng lĩnh trong Quân đội.

     Ngày 20 tháng 9 năm 1964, Bác Hồ lên Đá Chông. Cùng đi có Thủ tướng Phạm Văn Đồng và một số đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị và Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị. Tại ngôi nhà 2 tầng, Bác và Thủ tướng Phạm Văn Đồng cùng các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị trao đổi về tình hình quốc tế và trong nước từ sau “Sự kiện Vịnh Bắc bộ” ngày 5 tháng 8 năm 1964; bàn luận và quyết định một số vấn đề công tác phòng không nhân dân.

     Trong năm này, Bác và các đồng chí trong Bộ Chính trị đã lên làm việc ở nhà sàn và đi thăm một số xã và gia đình ở Khu vực Đá Chông.

     Sau đó một thời gian, Bác cùng các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Song Hào, Trần Bá Đặng và một số cán bộ Binh chủng Công binh đã đào hầm phía gần nhà bảo vệ và bể nước, khi Bác lên quan sát địa thế, Bác đã yêu cầu chuyển xuống vị trí gần gốc đa, khu vực nhà kính bây giờ. Theo Bác, phía đó có sự che chắn của đỉnh U Rồng, địch khó có thể đánh phá được.

     Ngày 19 tháng 5 năm 1965, Bác lên Đá Chông. Bác không ở Hà Nội để tránh các nghi thức mừng sinh nhật của mình. Tại K9, Bác đã “tổ chức” sinh nhật rất đơn giản, vui cùng các chiến sĩ bảo vệ.

     3. Nơi giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm chiến tranh ác liệt (1969-1975)

Nhà kính, nơi giữ gìn thi hài Bác trong những năm tháng chiến tranh ác liệt (19969 – 1975). (Nguồn: Khu di tích Kim Liên).

     Khi Bác Hồ qua đời ngày 2 tháng 9 năm 1969, cũng là lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn ác liệt nhất, để đề phòng địch tiếp tục leo thang chiến tranh ra miền Bắc, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định chọn khu căn cứ K9, bảo đảm được các yếu tố: yên tĩnh, bí mật, xa Hà Nội, thuận tiện giao thông để giữ gìn thi hài Bác.

     Ngày 10 tháng 9 năm 1969, một số cán bộ của Bộ Tư lệnh Công binh và Tiểu đoàn 144-Bộ Tổng tham mưu đã lên K9 để khảo sát, thiết kế, cải tạo lại công trình và nhận bàn giao toàn bộ khu vực do các đơn vị công an võ trang và Văn phòng Trung ương giao lại. Ban đầu, Ban Chỉ đạo giữ gìn thi hài Bác định dùng ngôi nhà kính đã có sẵn để lắp đặt thiết bị máy móc để giữ gìn thi hài Bác ở ngay trên mặt đất. Nhưng về sau, Quân ủy Trung ương quyết định phải cải tạo cả hệ thống hầm ngầm để có thể đưa Bác xuống khi chiến tranh có thể lan rộng tới khu vực này.

     Trong điều kiện thi công khó khăn, phải bảo đảm bí mật, thời gian gấp, nhưng lực lượng Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 259, Bộ Tư lệnh Công binh đã hoàn thành nhiệm vụ. Ngày 15 tháng 12 năm 1969, công trình thực hiện nhiệm vụ giữ gìn thi hài Bác hoàn thành. K9 được đổi thành K84 (tức công trình 75 ở Hà Nội + K9 ở Đá Chông thành K84).

     Sáng sớm ngày 24 tháng 12 năm 1969, thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh được di chuyển từ Hà Nội lên K84 bảo đảm tuyệt đối an toàn, bí mật. Từ đó, K84 bước vào giai đoạn thực hiện nhiệm vụ đặc biệt: “Giữ yên giấc ngủ của Người”.

     Sáng ngày 23 tháng 8 năm 1970, các đồng chí trong Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu đã tổ chức viếng Bác giản dị và trang nghiêm tại K84.

     Nhiều đồng chí trong Trung ương Cục miền Nam ra miền Bắc công tác như: đồng chí Nguyễn Văn linh, Võ Văn Kiệt… đều lên K84 thăm viếng Người, quyết tâm thực hiện mong muốn của Người “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”.

     Cuối tháng 11 năm 1970, đế quốc Mỹ đã tổ chức tập kích bất ngờ bằng đường không xuống một trại giam ven thị xã Sơn Tây hòng giải thoát số phi công của chúng bị giam giữ ở đây. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định di chuyển thi hài Bác trở về Hà Nội. Đêm ngày 3 tháng 12 năm 1970, thi hài Bác đã được Đoàn 69 di chuyển về Công trình 75A tại Hà Nội.

     Mùa mưa lũ năm 1971, mực nước sông Hồng lên cao, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định di chuyển thi hài Bác trở lại K84. Trưa ngày 19 tháng 8 năm 1971, công việc di chuyển được thực hiện. Nhưng đoạn đường vào K84 bị ngập sâu (do đỉnh lũ ở Sơn Tây lên cao, làm cho đoạn đê sông Đà ở Khê Thượng bị vỡ), chiếc xe Zin chở thi hài Bác từ Thủ đô Hà Nội lên không thể vượt qua được. Trong tình huống hết sức khẩn trương đó, Ban Chỉ huy Đoàn 69 đã chọn phương án: chuyển thi hài Bác lên xe hồng thập tự, rồi bắc cầu để cả xe hồng thập tự bò lên chiếc xe Pap lội nước, vượt ngầm sâu đi vào khu vực nhà kính tại K84 an toàn.

     Năm 1972, đề phòng đế quốc Mỹ tiếp tục tấn công mở rộng bằng không quân ra miền Bắc, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định di chuyển thi hài Bác đến căn cứ K2 (mật danh là H21). Đây là một địa điểm sơ tán của Bộ Quốc phòng ở bên kia sông Đà, là một hang đá sâu 70m nằm trong một núi đá lớn cách K84 khoảng 15km, để bảo đảm an toàn hơn. Đêm ngày 11 tháng 7 năm 1972, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 69 đã di chuyển thi hài Bác rời K84 đến K2 để tiếp tục nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn an toàn tuyệt đối.

     Sáng sớm ngày 9 tháng 2 năm 1973 (tức ngày mồng 5 Tết Quý Sửu), cán bộ, chiến sĩ Đoàn 69 đã đón Bác trở lại K84 an toàn.

     16h ngày 18 tháng 7 năm 1975, thi hài Bác được di chuyển từ K84 về công trình Lăng của Người tại Ba Đình lịch sử.

 

Chú giải:

[1]. Báo cáo tổng kết quá trình xây dựng Công trình KV, ngày 18-6-1960 của tỉnh Sơn Tây. [2]. Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1993, tr. 347.

 

 

                                                                                          VƯƠNG NGA

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *