CAO BẰNG QUÊ HƯƠNG THỨ HAI CỦA BÁC

 Sau hơn 30 năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, ngày 28/01/1941, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đặt chân trở về đất mẹ tại Pác Bó – Hà Quảng – Cao Bằng. Phút giây đó, sau này Người kể lại: “Bao nhiêu năm thương nhớ, chờ đợi. Hôm nay mới bước chân về nơi non sông gấm vóc của mình. Khi bước qua cái bia giới tuyến, lòng Bác vô cùng cảm động…”. Từ đây, Người coi Cao Bằng chính là quê hương thứ 2 của Người. Người gắn bó tại Cao Bằng từ năm 1941 đến năm 1945, gắn bó máu thịt với nhân dân, sống những gian khổ và thiếu thốn giữa thiên nhiên khắc nghiệt có khi tưởng chừng như cái chết cận kề, nhưng Người đã vượt qua nhờ sự bảo vệ, chăm sóc, che chở của nhân dân Cao Bằng. Chính nơi đây, Người đã đưa ra những quyết sách quan trọng mang tính chất sống còn đối với cách mạng Việt Nam.
Cao Bằng nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam, hai mặt Bắc và Đông giáp với Quảng Tây- Trung Quốc, phía Tây giáp tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, phía Đông giáp tỉnh Bắc Cạn và Lạng Sơn. Cao Bằng  là một vùng đá vôi xen lẫn núi đất, núi non trùng điệp, rừng núi chiếm tới 90% diện tích toàn tỉnh. Trên địa bàn có hai con sông lớn là sông Gâm và sông Bằng, khí hậu trong lành ôn hòa dễ chịu. Người dân các dân tộc Cao Bằng hiền lành chất phác, giàu lòng yêu nước. Từ Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc chọn Cao Bằng để về nước hoạt động và xây dựng căn cứ địa cách mạng, bởi Cao Bằng là địa bàn có vị trí chiến lược, tiến có thể đánh, lui có thể giữ, có hàng chục cửa khẩu, hàng trăm lối mòn sang Trung Quốc, tiện lợi cho việc liên lạc quốc tế. Cao Bằng còn có quốc lộ sang Lạng Sơn, xuống Thái Nguyên rồi tỏa xuống đồng bằng Bắc Bộ tiện cho việc liên kết với các phong trào cách mạng của cả nước. Cao bằng có địa hình hiểm trở, nhiều núi cao, rừng sâu, nhiều sông suối lắm thác nhiều ghềnh…thuận lợi cho các đội du kích, các cơ sở cách mạng hoạt động. Thời tiết khí hậu, địa hình và thổ nhưỡng nơi đây phù hợp với việc sản xuất chăn nuôi, cất giấu, đảm bảo tự cung tự cấp lương thực và nhu cầu kinh thế thiết yếu. Song điều cốt yếu là Cao Bằng có “phong trào tốt từ trước”, “nhân dân Cao Bằng có trình độ giác ngộ chính trị tương đối cao và cán bộ lãnh đạo nơi đây khá vững vàng”. Nhân dân Cao Bằng có truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm, đây là nơi sớm có tổ chức cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ Đảng cộng sản Đông Dương, cuộc đấu tranh của các  tầng lớp lớp nhân dân, đặc biệt là công nhân chống lại ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp tương đối phát triển và thu được nhiều kết quả. Và Nguyễn Ái Quốc đã nhận định: “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng còn phải phát triển về tỉnh Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên và toàn quốc thì phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tiến công, lúc khó khăn có thể giữ”. Vì vậy, Cao Bằng là nơi hội tụ đủ những điều kiện cần thiết của một căn cứ địa buổi ban đầu.
Người hoạt động ở Cao bằng  từ tháng 1/1941 đến tháng 5/1945  trở về Tuyên Quang hoạt động là trong khoảng thời gian 3 năm (trừ thời gian tháng 8/1942, Người sang Trung Quốc công tác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam gần 1 năm). Đây là thời gian Bác sống và hoạt động và gắn bó sâu sắc với quê hương, với phong trào cách mạng, với đồng chí, đồng bào các dân tộc Cao Bằng “trong những ngày tổ quốc còn chưa có một tấc đất tự do”.  Người và Trung Ương Đảng đã đề ra nhiều chủ trương quan trọng cho cách mạng Việt Nam, có nhiều chỉ đạo sát sao về thực hiện nhiệm vụ cách mạng của địa phương, qua đó giúp phong trào cách mạng ở Cao Bằng phát triển mạnh mẽ. Tại đây, Người đã chủ trì hội nghị Trung Ương 8, hoàn chỉnh sự chuyển hướng  chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam – đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, quyết định thành lập mặt trận Việt Minh, thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay, Cao Bằng là nơi thực hiện hóa những tư tưởng về chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ đây, Người chỉ đạo phong trào cách mạng của cả nước đón thời cơ tiến hành tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 thắng lợi, mở ra một kỷ nguyên mới kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cuộc sống thường ngày của Người khi gắn bó tại mảnh đất Cao Bằng rất đỗi  giản dị đạm bạc “cháo bẹ rau măng” nhưng chan chứa tình yêu thương đồng bào các dân tộc nơi đây giành cho Người và của Người giành cho nhân dân Cao Bằng. Những địa danh hang Cốc Bó, lán Khuổi Nậm, núi Lam Sơn cùng những bản làng hẻo lánh ít người đã gắn liền với sự nghiệp cách mạng và tên tuổi của Người. Hàng ngày sau những giờ làm việc buổi chiều trong bộ quần áo nùng bạc màu, đôi giày vải Bác thường đi dạo leo núi, nhưng thực ra Người đi nắm tình hình khu vực, Người dạy:  hoạt động ở vùng núi nhân dân thưa khi đi công tác tốt nhất phải đem theo cơm nắm vừa được việc mà lại không phiền hà cho dân. Bác vào nhà dân thăm hỏi gặp gỡ nói chuyện với nhân dân làng Pác Bó, giải thích cho họ hiểu nguyên nhân của sự cực khổ, động viên họ tham gia vào mặt trận. Hình ảnh "ông Ké ", "già Thu" đã in đậm trong lòng người dân Pác Bó những ngày đầu cách mạng.
Người  gắn bó máu thịt với nhân dân và mảnh đất Cao Bằng, đã từng đồng cam cộng khổ với nhân dân nơi đây trong những ngày đầu cách mạng, những lúc tưởng như cái chết cận kề. Bởi vậy, tình cảm với Cao Bằng đã luôn in đậm trong tim Người. Ngày  rời Cao bằng ra đi đầy bịn rịn lưu luyến, hai tiếng quê hương níu mãi chân Người và hứa hẹn sớm ngày trở lại, nhưng bận việc nước nặng nề, mãi đến  năm 1958, Người mới trở về thăm quê hương thứ 2 của mình, và đến đầu năm 1961, Người mới trở về với mảnh đất thân thương Pác Bó – Cao Bằng. 
Ngày 15-9-1958,  bước chân Người trở lại với mảnh đất Cao Bằng thân thuộc, Người đã đến thăm mỏ thiếc Tỉnh Túc. Sau khi thăm nơi ăn ở của các chuyên gia Liên xô đang giúp chúng ta xây dựng và khai thác mỏ. Bác không quên vào thăm bếp ăn tập thể của cán bộ công nhân mỏ. Bác đi thăm đi khu khai thác nhà kiểm quặng, lò thiếc và làm việc với ban lãnh đạo mỏ
Sáng hôm sau 16-9-1958 Bác mặc bộ quần áo giản dị chân vận đôi dép cao su đến khu khai mỏ, nhà máy sàng, xưởng ô tô, xưởng cơ khí đến đâu Bác cũng ân cần hỏi về điều kiện làm việc, đời sống văn hoá, tinh thần của anh chị em công nhân. Bác căn dặn cán bộ công nhân mỏ phải đoàn kết quốc tế đoàn kết dân tộc, học tập và rèn luyện tay nghề cho vững. Người khen ngợi anh chị em công nhân, động viên mọi người phát động phong trào thi đua lao động sản xuất. Sự kiện Người về thăm mỏ thiếc Tĩnh Túc là nguồn động viên tinh thần vô giá đối với Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Cao Bằng. Từ đây Cao Bằng lại được tiếp thêm sức mạnh hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao góp phần quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
Sau bao năm xa Pác Bó chiều ngày 19-2-1961, Bác cùng đồng chí Tố Hữu, Nguyễn Khai và đồng chí Lê Quảng Ba đi ô tô lên thị xã Cao Bằng. Sáng hôm sau 20-2-1961 ngày Chủ nhật tức ngày mùng 5 tết Tân Sửu. Bác cùng đoàn về thăm và chúc tết đồng bào Pác Bó, Hà Quảng. Từ Tỉnh uỷ Bác đi ô tô lên Đôn Chương cách Pác Bó 10km sau đó  Bác đi ngựa. Cả làng Pác Bó già trẻ gái trai đều ra đón Bác vui mừng hân hoan vây quanh Bác như đón người thân đi xa về. Nhìn Bác giản dị trong chiếc áo bông gần gũi thân thiết như một người cha ai cũng cảm động. Nhân dân Pác Bó tổ chức mít tinh đón Bác với đủ các sắc màu dân tộc. Sau khi chúc tết Bác nói vui với đồng bào "tôi về thăm nhà sao mọi người lại đón tôi" nghe Bác nói ai cũng rưng rưng nước mắt, thực vậy, Bác về thăm Pác Bó Cao Bằng là về thăm nhà, về thăm quê hương thứ 2 của Bác, thăm lại căn cứ cách mạng buổi đầu của tổ quốc thân yêu.

Người mang tấm ảnh của mình tặng cho nhân dân Cao Bằng làm kỉ niệm, rồi đến thăm nhà đồng chí Đại Lâm, đến suối LêNin vào thăm hang Pác Bó, rẽ lên Khuổi Nậm nơi họp trung ương lần thứ 8 Bác trồng 3 khóm trúc bên bờ suối. Trên đường ra về Bác nói với mọi người sau này con đường từ đây ra thị xã nên trông cây có hoa để trở thành con đường đỏ sau đó Bác cùng các đồng chi cưỡi ngựa ra Nà Mạ nơi có mộ anh hùng liệt sỹ Kim Đồng. Từ đây Bác đi máy bay lên thẳng do phi công Liên Xô lái đưa Bác về sân bay Nà Cạn thị xã Cao Bằng. Về thị xã Bác nghỉ ở trụ sở Tỉnh uỷ Cao Bằng đóng tại vườn cam. Ngày 21-2-1961, Bác dành thời gian đến bệnh viện tỉnh. Sau đó Bác đến sân vận động thị xã để nói chuyện với đồng bào và cán bộ Cao Bằng. Tại đây Bác căn dặn đồng bào và cán bộ phải đoàn kết giữa các dân tộc, cần kiệm xây dựng phát triển hợp tác xã, phát triển công nghiệp, văn hoá, giáo dục, tăng cường sức mạnh của các đoàn thể quần chúng, quân đội, nhân dân, dân quân tự vệ  và công an nhân dân.
Bác nói: "Đồng bào tỉnh ta đã anh dũng trong cách mạng và trong kháng chiến thì chắc đồng bào càng anh dũng trong lao động sản xuất để hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch trong năm nay làm đà tốt cho kết hoạch 5 năm. Như thế là đồng bào tỉnh ta sẽ góp phần xứng đáng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc làm cở sở vững mạnh để thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà. Cuối cùng Bác gửi lời thăm hỏi tất cả đồng bào các dân tộc, cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên, nhân dân, bộ đội, công an, dân quân, các cụ phụ lão, các cháu thiếu niên nhi đồng, các bạn hoa kiều ở các địa phương. Thân ái hỏi thăm các gia đình đã ủng hộ cách mạng trong thời kỳ bí mật, các gia đình quân nhân, các gia đình liệt sỹ, các anh hùng và chiến sỹ thi đua, cảm ơn các chuyên gia nước bạn đang giúp chúng ta ở Cao Bằng, Bác mong “Cao Bằng phấn đấu để không ai cao bằng”.
Sự kiện Bác về thăm Pác Bó – Cao Bằng lần này là lần cuối cùng trước lúc Bác đi xa, đây là niềm vinh dự niềm cổ vũ lớn đối với đồng vào Cao Bằng. Tình cảm mà Bác dành cho đồng bào Cao Bằng hết sức chân thành, không chỉ là tình cảm của vị lãnh tụ đối với đồng bào cả nước mà  còn là sự tri ân đối với đồng bào đã đùm bọc che chở Người trong những tháng ngày gian lao vất vả. Người khẳng định trong sự nghiệp chung của cách mạng Việt Nam có sự đóng góp to lớn của đồng bào các dân tộc Cao Bằng. Trong thư gửi đồng bào Cao Bằng ngày 2-9-1947 Người viết "tôi luôn nhớ những ngày công tác ở tỉnh ta, cùng mấy đồng chí trong tỉnh trèo đèo lội suối, ở núi nằm hang … khi thì 5-7 anh chị em bí mật tuyên truyền huấn luyện tổ chức. Khi thì cùng các anh chị em du kích đánh Nhật, chống Pháp trừ việt gian, anh em no đói có nhau, sướng khổ cùng nhau, đồng lòng một chí do đó mà đào tạo nên những cán bộ quân sự và chính trị. Tôi không bao giờ quên được nhưng ngày gian nan cực khổ đó đồng bào tỉnh ta các cụ già, các chị em phụ nữ, nông dân, các anh em thanh niên, các cháu nhi đồng ai cũng hăng hái giúp đỡ mặc dù Tây và Nhật thẳng tay khủng bố nó đốt làng, nó phá nhà, nó bắt người nhưng đồng bào vẫn kiên quyết giúp đỡ cách mạng. Đồng bào Thổ, đồng bào Nùng, đồng bào Mán, đồng bào Mèo cho đến anh chị em hoa kiều người thì giúp tôi ăn kẻ thì giúp tôi áo, có những đồng bào nhịn ăn, bán trâu, bán ruộng để giúp chúng tôi làm cách mệnh thật quý hoá vô cùng".
Bác đã đi xa nhưng hình ảnh của Người, lối sống giản dị tình yêu thương chan chứa mà Người dành cho nhân dân các dân tộc Cao Bằng luôn in đậm trong lòng mỗi người. Người Cao Bằng coi Bác như cha như ông của mình, dành cho người một tình cảm đặc biệt vô cùng yêu quý, kính trọng, chở che, bảo vệ Người tin Người theo cách mạng, mong ngóng hân hoan chào đón mỗi lần Người trở về thăm. Và khi Bác đã đi xa, tình cảm của nhân dân Cao bằng giành cho Bác vẫn một lòng một dạ và càng ghi nhớ công ơn Người sâu đậm.
Phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang và tình cảm sâu nặng đối với Bác nhân dân Cao Bằng luôn đoàn kết một lòng phấn đấu xây dựng hậu phương vững mạnh ra sức chi viện sức người sức của cho đồng bào miền Nam đánh Mỹ góp phần cùng quân dân cả nước làm nên đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền nam thống nhất đất nước, bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc. Bước vào thời kỳ đổi mới Đảng bộ nhân dân các dân tộc Cao Bằng đã không ngừng khắc phục khó khăn, khai thác tiềm năng thế mạnh, tranh thủ mọi nguồn lực tập trung phát triển toàn diện về kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng an ninh, đẩy mạnh tốc độ xoá đói giảm nghèo, thực hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ đề ra. Đảng bộ và nhân dân Cao Bằng xem việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chi Minh là việc làm thường xuyên tạo thành phong trào sôi nổi trong toàn tỉnh.
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, 70 năm ngày Bác về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và 121 năm ngày sinh của Bác, Đảng bộ nhân dân các dân tộc tỉnh Cao Bằng đã xây dựng tượng đài Bác tại trung tâm thành phố Cao Bằng và đền thờ Bác tại khu di tích quốc gia đặc biệt Pác Bó. Từ đây nhân dân Cao Bằng có thêm một công trình tưởng niệm để mọi người hiểu thêm về tình cảm của Bác, bày tỏ tình cảm và tưởng nhớ công lao vĩ đại của Người. Đền thờ trở thành địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống cách mạng và tinh thần học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đáp ứng nhu cầu về nguồn của nhân dân cả nước và khách nước ngoài khi về thăm cội nguồn Pác Bó. Một địa danh không chỉ gần gũi thân thiết với nhân dân ta ở khắp mọi miền đất nước mà còn cả với bạn bè quốc tế.

Nguyễn Thị Xuân
Phòng tuyên truyền Giáo dục

 
         
 

 

Danh mục: Chưa phân loại

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *