Một buổi sáng trong lành – khi đất nước hân hoan chào đón 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. Tôi dạo bước trong khuôn viên Khu Di Tích Kim Liên, ngắm nhìn những đoá hoa đang vươn mình khoe sắc, những lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới, những tấm băng rôn, khẩu hiệu reo hò trong gió như đang đón chào sự kiện lớn của đất nước và đón chào một mùa xuân mới đang đến. Bước vào nhà Tưởng Niệm thắp nén hương thơm lên bàn thờ Bác Hồ kính yêu. Lòng tôi bồi hồi xúc động nhớ về công ơn to lớn của Người – lãnh tụ thiên tài của nhân dân ta, đất nước ta. Người sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện Đảng Cộng Sản Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi rất vẻ vang, mở ra kỷ nguyên mới trong sự phát triển của dân tộc ta: kỷ nguyên độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội; mở ra thời đại mới: thời đại Hồ Chí Minh.
Nhớ lại hoàn cảnh đất nước trước khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời. năm 1858 thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, chúng từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến, nhân dân ta một cổ hai tròng, lầm than nô lệ. Nhưng xiềng xích của thực dân không thể khuất phục được nhân dân, không cam chịu kiếp sống nô lệ, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên chống quân xâm lược,các cuộc khởi nghĩa, các phong trào đấu tranh diễn ra vô cùng anh dũng nhưng đã bị thực dân pháp đàn áp dã man và thất bại. Cách mạng Việt Nam rơi vào khủng hoảng, bế tắc trầm trọng về đường lối giải phóng dân tộc.
Thực tiễn thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX đã đặt ra nhiều câu hỏi và tác động đến tư tưởng, nhận thức của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành. Người khâm phục lòng yêu nước, tinh thần bất khuất của các bậc tiền bối nhưng không tán thành đường lối cứu nước của họ. Với nhãn quan chính trị nhạy bén, Người đã dần dần xác định cho mình một hướng đi riêng độc đáo, đúng đắn năm 1965, trả lời nhà báo Nga, Anna Luy Xơtơrông, Người nói: ” Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp, Người này nghĩ là Nhật, người khác nghĩ là Anh, có người cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ”.(1 )
Với tấm lòng yêu nước nồng nàn và ý chí quyết tâm tìm con đường mới cứu dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách xâm lược, ngày 5/6/1911, với tên mới là Văn Ba trên con tàu Amiran Latuso Tơrevin, từ bến cảng Sài Gòn người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời tổ quốc đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc. Hơn 30 năm bôn ba nước ngoài, Người đã vượt qua ba đại dương, bốn châu lục Á, Âu, Phi, Mỹ. Trải qua những năm tháng lao động khổ cực, vừa học tập, nghiên cứu, thâm nhập vào đời sống thực tế của những người lao động nhiều nước trên thế giới, Người nhận rõ giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước đều là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là kẻ thù. Sau này Người đã khái quát thành một chân lý: ” Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”.(2 )
Sự kiện cực kỳ quan trọng làm chuyển biến cơ bản nhận thức con đường cứu nước giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc là khi đọc được bản ” Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa ” của Lênin đăng trên báo Nhân đạo tháng 7/ 1920. Luận cương đã mang lại cho Nguyễn Ái Quốc ánh sáng về con đường cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa. Sau này Người viết: ” Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: ” Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.( 3 ) Luận cương đã đáp ứng trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở. Từ đây, Người tìm ra con đường cứu nước, cứu dân đúng đắn: ” muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. ( 4 )
Ngày 25/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội đại biểu toàn quốc lần XVIII của Đảng xã hội Pháp. Tại Đại hội lịch sử này, Người bỏ phiếu gia nhập Quốc tế cộng sản và trở thành một trong những người đầu tiên sáng lập Đảng cộng sản Pháp, là người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là mốc lịch sử quan trọng trong hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc từ một nhà yêu nước chân chính trở thành một chiến sỹ cộng sản quốc tế.
Trở thành chiến sỹ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam. Tháng 11/1924, Người về Quảng Châu ( Trung Quốc ) trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người sáng lập và trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, sáng lập và viết bài cho báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kach mệnh…nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước. Người tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ cốt cán chuẩn bị cho việc thành lập Đảng.
Sự truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước làm cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy, các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập: Đông Dương Cộng sản Đảng thành lập ở Bắc kỳ; An Nam Cộng sản Đảng thành lập ở Nam kỳ; Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn thành lập ở Trung kỳ. Sự ra đời và tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết đặt ra là cần có một Đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng.
Trước tình hình đó, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã được diễn ra tại bán đảo Cửu Long ( Hương Cảng, Trung Quốc ) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế cộng sản từ ngày 6 – 1 đến ngày 7 – 2 – 1930. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như Đại hội thành lập Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đây là bước ngoặt trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo cách mạng, là nhân tố đảm bảo cho cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam gắn liền tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta. Sau khi ra đời, với đường lối cứu nước đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với 3 cao trào cách mạng lớn: Cao trào cách mạng 1930 – 1931 với đỉnh cao là phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh; cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ 1936 – 1939 và cao trào cách mạng giải phóng dân tộc 1939 – 1945 mà đỉnh cao là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Cách mạng Tháng Tám thành công đã giành lại nền độc lập của dân tộc sau hơn 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, trước toàn thể quốc dân đồng bào và nhân dân thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà ( nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Đánh giá ý nghĩa lịch sử của sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: ” Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ở vào tình thế khó khăn ” ngàn cân treo sợi tóc” bởi thù trong giặc ngoài, ngân khố trống rỗng, nạn đói hoành hành, nạn mù chữ tràn lan… Trước tình hình đó, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt. Trong những năm 1945 – 1946, Đảng đã lãnh đạo xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, cùng lúc đấu tranh chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp tại Nam Bộ và Nam Trung Bộ, đồng thời chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.
Trước âm mưu của thực dân Pháp quyết xâm lược nước ta một lần nữa. Đêm ngày 19/12/ 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra ” Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến “, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên với quyết tâm: ” thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ “. Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế chống thực dân Pháp xâm lược. Kết quả, ta đã lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp và giành thắng lợi quyết định trong chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 ” lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Pháp phải ký hiệp định Giơnevo chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Sau hiệp định Giơnevo được ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại hiệp định Giơnevơ, biến Miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Do đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở Miền Nam. Tại Miền Bắc, Đảng lãnh đạo nhân dân vừa sản xuất vừa chiến đấu để khôi phục kinh tế – xã hội, đưa Miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội và hoàn thành vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn Miền Nam. Tại Miền Nam, Đảng lãnh đạo nhân dân lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất tổ quốc năm 1975.
Sau Đại thắng mùa xuân năm 1975, Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, ổn định sản xuất, cải thiện một bước đời sống nhân dân. Các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế được tăng cường đầu tư. Hệ thống cơ sở hạ tầng cho phát triển công nghiệp được quan tâm xây dựng. Với tinh thần độc lập dân tộc bất diệt, nhân dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu chống lại hai cuộc chiến tranh ngoại xâm quy mô lớn ở biên giới phía Tây Nam và phía Bắc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, Đảng đã tìm tòi, thử nghiệm, thông qua quá trình tổng kết thực tiễn để ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị là tiền đề quan trọng hình thành được đường lối đổi mới của Đảng.
Sau 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu đáng kể song cũng gặp không ít khó khăn, đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng. Trước tình hình đó, Đảng đã tiến hành đổi mới toàn diện đất nước. Đường lối đổi mới được đề ra tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng Sản Việt Nam tháng 12/ 1986 đánh dấu bước ngoặt cơ bản, có tính quyết định trong sự nghiệp phát triển của Việt Nam. Đổi mới đưa đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế – xã hội. Việt Nam từ một quốc gia đói nghèo, đã trở thành một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Việt Nam trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; kinh tế tăng trưởng khá, văn hoá – xã hội có bước phát triển; công tác xoá đói giảm nghèo đạt được những thành tựu quan trọng; đời sống nhân dân có nhiều thay đổi. Chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả tích cực. Ngày nay, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt coi trọng và đã đi sâu trong đời sống nhân dân và cán bộ đảng viên.Những thành tựu đó không chỉ là ” bệ phóng” để Đảng tiếp tục lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mà còn giúp nhân dân thêm tin tưởng và vững bước dưới ngọn cờ của Đảng, tạo thành sức mạnh ” ý Đảng, lòng dân” – nhân tố quyết định trực tiếp đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đến bến bờ vinh quang.
Như vậy, những thành tựu rực rỡ, những dấu mốc quan trọng, những đổi thay và phát triển của đất nước trong 95 năm qua đã khẳng định sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt tuyệt đối của Đảng và Bác Hồ kính yêu. Bằng ý chí quật cường, truyền thống đoàn kết đất nước ta đã và đang tạo dựng được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử như khẳng định của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng: ” Với tất cả sự khiêm tốn,chúng ta vẫn có thể nói rằng: đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, và uy tín quốc tế như ngày nay”.
“Đảng đã cho ta một mùa xuân cả cuộc đời
Đảng truyền cho ta một niềm tin ở tương lai
Đảng đã mang lại tình yêu thương khắp nơi nơi
Thế giới quanh ta hát vang ngàn tiếng cười”
Lời bài hát là tiếng lòng đầy tự hào, biết ơn của mỗi người dân đất Việt về Đảng quang vinh, về Bác Hồ vĩ đại. Con đường của Đảng, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh sẽ mãi mãi toả sáng với non sông đất nước ta. Nhân dân ta nguyện tiếp tục đi theo con đường cách mạng vẻ vang mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Chúng ta tin tưởng một cách chắc chắn với sự đoàn kết một lòng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thì Đảng ngày càng vững mạnh; Đất nước phát triển; Dân tộc trường tồn.
Chào mừng kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, chúng tôi – mỗi cán bộ, đảng viên, nhân viên khu di tích Kim Liên – Vinh dự, tự hào được làm việc, cống hiến trên quê hương Bác Hồ kính yêu. Chúng tôi càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, xin nguyện đi theo con đường của Đảng, mãi mãi học tập, tu dưỡng, rèn luyện theo tấm gương đạo đức, phong cách Bác Hồ vĩ đại. Để Khu di tích Quốc gia Đặc biệt Kim Liên luôn luôn là địa chỉ đỏ trong hành trình về nguồn của nhân dân và bạn bè quốc tế.
Tài liệu tham khảo:
(1). Hồ Chí Minh: tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2012, tr 21.
(2). Hồ Chí Minh: tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2006, tr 47.
(3). Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, tr 147, tập 12.
(4). Hồ Chí Minh: toàn tập, tr 30, tập 12.
Lương Định
- Giếng Cốc – nơi gắn bó những kỷ niệm thời niên thiếu của Bác
- ĐOÀN CÔNG TÁC BAN CHỈ ĐẠO CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CỦA CHÍNH PHỦ VỀ THĂM KHU DI TÍCH KIM LIÊN
- TÁC PHONG CHỦ ĐỘNG, LINH HOẠT CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG CHUYẾN VỀ THĂM QUÊ LẦN THỨ 2 (08-10/12/1961)
- PHÓ CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HÒA XHCN VIỆT NAM VỀ THĂM KHU DI TÍCH KIM LIÊN
- XÚC ĐỘNG LỄ GIỖ BÁC HỒ LẦN THỨ 50