Cứ mỗi độ Xuân về, nhân dân cả nước lại bồi hồi nhớ Bác Hồ kính yêu. Người đã cống hiến, hi sinh trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta và vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên thế giới. Người đã trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh nhưng vô cùng cao thượng và phong phú, trong sáng và đẹp đẽ. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là tấm gương sáng ngời cho lớp lớp thế hệ người Việt Nam học tập và noi theo. Đầu Xuân năm Ất Tỵ 2025, chúng ta cùng nhau nhớ những mốc thời gian năm Tỵ trong cuộc đời của Bác Hồ.
Năm 1893 (Quý Tỵ)
Ngày 7 tháng 4 năm 1893, Nguyễn Sinh Cung (tên thời nhỏ của Bác Hồ) chịu tang ông ngoại là cụ Hoàng Xuân Đường. Dẫu chỉ được sống cùng với ông ngoại 3 năm, nhưng trong những năm tháng đầu đời quan trọng ấy, qua những câu chuyện giản dị, những lời khuyên mộc mạc, những câu hò ví dặm… mà ông ngoại đã đọc, đã hát cho bé Cung nghe, tuy chưa hiểu hết một cách trọn vẹn, song cũng đã có tác động rất lớn đối với việc hình thành nhân cách của Người sau này. Để tỏ lòng tôn kính, tri ân, Khu di tích Kim Liên đã tổ chức chu đáo, trang nghiêm lễ tưởng niệm ngày mất của cụ Hoàng Xuân Đường vào dịp 7/4 âm lịch hàng năm.
Năm 1905 (Ất Tỵ)
Tháng 7-1905, Nguyễn Tất Thành theo cha đến huyện Kiến Xương, Thái Bình, trong dịp ông Nguyễn Sinh Sắc đi gặp các sĩ phu yêu nước đất Bắc. Chính trong thời gian này, ông Nguyễn Thức Canh đến Kim Liên tìm Nguyễn Tất Thành để rủ đi xuất dương du học (phong trào Đông Du) nhưng không gặp. Những chuyến đi này giúp Nguyễn Tất Thành mở rộng thêm tầm nhìn và tầm suy nghĩ. Anh nhận thấy ở đâu người dân cũng lam lũ đói khổ, nên dường như trong họ đang âm ỉ những đốm lửa muốn thiêu cháy bọn áp bức bóc lột thực dân phong kiến. Trước cảnh thống khổ của nhân dân, anh đã sớm “có chí đuổi thực dân Pháp giải phóng đồng bào”. Khoảng tháng 9- 1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được ông Nguyễn Sinh Huy xin cho theo học lớp dự bị Trường tiểu học Pháp – bản xứ Vinh, cách Kim Liên khoảng 14km. Hai anh em trọ ở một gia đình nghèo mạn Cầu Rầm (Vinh), chiều thứ bảy thường đi bộ về thăm nhà, sáng thứ hai lại xuống Vinh. Chính tại trường tiểu học này, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên tiếp xúc với khẩu hiệu Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Sau này, khác với các bậc tiền bối, Người không dừng lại ở châu Á đang bị phương Tây xâu xé mà muốn sang Pháp, muốn “làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”. Ẩn sâu trong sự lựa chọn này là một suy tính khoa học mang dấu ấn của một thiên tài. Rõ ràng mục đích ra đi là để tìm đường cứu nước nhưng muốn thắng được kẻ thù thì phải hiểu kẻ thù ở nơi sào huyệt của nó và phải thắng nó bằng sức mạnh của tri thức, sức mạnh của thời đại chứ không đơn thuần bằng lòng yêu nước và chí căm thù. Chưa hết năm học, Tất Thành cùng cha vào Huế nhân dịp cha vào Kinh đô nhận chức.
Năm 1917 (Đinh Tỵ)
Năm 1917, ở nước Nga đã nổ ra cuộc cách mạng long trời lở đất, đó là Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Cuối năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp, bắt đầu gần 6 năm sống và hoạt động tại nước Pháp, mở đầu một thời kỳ mới trong phong trào giải phóng dân tộc nói chung và cuộc cách mạng giải phóng của nhân dân Việt Nam nói riêng. Người tiếp tục hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Có thể nói, với 30 năm hoạt động quốc tế và 24 năm giữ trọng trách là nguyên thủ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bôn ba nhiều nơi trên thế giới nhưng nước Pháp vẫn giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người. Những năm tháng hoạt động tại Pháp đã góp phần đào luyện nên người cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh.
Năm 1929 (Kỷ Tỵ)
Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước ở Xiêm (Thái Lan), tiếp tục chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua báo chí và các hoạt động thực tiễn, Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Người chỉ rõ cách mạng Việt Nam phải có đảng lãnh đạo, có chủ nghĩa Mác-Lênin làm nòng cốt. Khoảng cuối tháng 7 đến cuối tháng 10 -1929 rời tỉnh Sacôn Nakhôn, Nguyễn Ái Quốc đến tỉnh Nakhôn Phanom nằm kề sát bờ sông Mê Kông. Nơi hoạt động lâu nhất trong thời gian Người ở Nakhôn Phanom là làng Bản Mạy, còn có tên gọi là Nà Thoọc. Người đã xây dựng phong trào Việt kiều ở Bản Mạy trở thành một trong những địa điểm quan trọng của tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Sau một thời gian ở Nakhôn Phanom, Nguyễn Ái Quốc đến huyện Amnạt Charơn, tỉnh Ubon Ratchathani. Rời Amnạt Charơn, Nguyễn Ái Quốc đến tỉnh Ubon Ratchathani. Người hoạt động chủ yếu ở Bản Thà thuộc tỉnh Ubon Ratchathani. Địa điểm cuối cùng trên đất Thái Lan mà Nguyễn Ái Quốc đã đặt chân đến là tỉnh Noọng Khai, nằm sát bờ sông Mê Kông. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc thường ở và làm việc tại chùa Xỉ Xum Xưn. Đây là nơi Nguyễn Ái Quốc hẹn các đồng chí đang sinh hoạt trong chi bộ Viêng Chăn, vượt sông Mê Kông sang làm việc. Nguyễn Ái Quốc tiếp tục củng cố và xây dựng cơ sở cách mạng để mở rộng phong trào. Ngoài việc dịch sách và huấn luyện thanh niên, hằng ngày Người tổ chức cho cán bộ học tập và nghiên cứu về tình hình thế giới, tình hình trong nước, về chủ nghĩa Mác – Lênin, chú ý nhiều hơn việc giáo dục cán bộ về công tác quần chúng và công tác bí mật. Tháng 11 Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đi Trung Quốc. Trong thời gian hoạt động ở Xiêm, Nguyễn Ái Quốc đã làm rất nhiều cho công tác giáo dục, tuyên truyền và tổ chức, tạo nên một sự thay đổi lớn trong phong trào Việt kiều ở đây.
Năm 1941 (Tân Tỵ)
Thực hiện kế hoạch đã định, mùa Xuân năm Tân Tỵ 1941, Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí Phùng Chí Kiên, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Đặng Văn Cáp và được đồng chí Hoàng Sâm dẫn đường đã di chuyển xuống Nậm Quang ở sát biên giới Việt – Trung. Ngày 28-1-1941, sau 30 năm bôn ba nước ngoài đi tìm con đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã trở về Tổ quốc. Đây là thời khắc vô cùng trọng đại đối với lịch sử cách mạng Việt Nam. Sự kiện đó đã đáp ứng đòi hỏi khách quan của phong trào cách mạng trong nước, sự phát triển của tiến trình lịch sử đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc Việt Nam và cả đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Địa điểm đầu tiên Người trở về Tổ quốc là cột mốc 108 (nay là cột mốc 675) biên giới Việt Nam – Trung Quốc về đến Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng – vùng đất “phên dậu” Đông Bắc của Tổ quốc, là nơi hội tụ đủ cả “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” để xây dựng căn cứ địa cách mạng của cả nước.
Sự lựa chọn nơi đặt chân đầu tiên khi trở về Tổ quốc của Người đã thể hiện tầm nhìn mang tính chiến lược, về nhận thức, đoán định được hiện tại và triển vọng tương lai của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Những ngày đầu về nước, Người ở tại nhà ông Lý Quốc Súng (Máy Lỳ), dân tộc Nùng, ở thôn Pác Bó – một cơ sở cách mạng. Từ ngày 8-2-1941, Người chuyển đến hang Cốc Bó ở thôn Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng để sống và làm việc. Bác đã bắt tay ngay vào việc xây dựng căn cứ địa, tổ chức các đoàn thể cứu quốc và chuẩn bị Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại núi rừng Pác Bó hùng vĩ, Bác lại tiếp tục mở lớp huấn luyện về công tác Đảng, công tác quần chúng. Người đã dịch cuốn “Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô”, dùng làm tài liệu quan trọng cho các lớp huấn luyện. Chỉ bốn tháng sau khi trở về Việt Nam, từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, với tư cách là đại biểu của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng Đông Dương. Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) để tập hợp các tầng lớp nhân dân, thực hiện việc chia đất cho dân nghèo, để tiến tới “người cày có ruộng”. Dưới ánh sáng soi đường của những tư tưởng, quan điểm đúng đắn mà Bác Hồ đã nêu tại Hội nghị, Hội Nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng có một ý nghĩa lịch sử đặc biệt quan trọng. Nghị quyết của Hội nghị đã thể hiện một cách sâu sắc và hoàn chỉnh vấn đề giải phóng dân tộc, đánh dấu một bước tiến mới của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng tháng Tám sau này. Bác Hồ còn chỉ thị lập Đội Tự vệ vũ trang ở Cao Bằng, tự tay Người biên soạn một số tài liệu quan trọng về chiến thuật du kích: “Cách đánh du kích và kinh nghiệm Trung Quốc”. Ngoài ra, Người còn biên dịch “Phép dùng binh của Tôn Tử” và “Sách dạy làm tướng” của Khổng Minh được Người đặt dưới một đầu đề hoàn toàn mới là: “Cách huấn luyện cán bộ quân sự”. Những tác phẩm như: Lịch sử nước ta, Địa lý Việt Nam… cũng được biên soạn trong thời kỳ này.
Năm 1953 (Quý Tỵ)
Cuối tháng 9/1953, Bác Hồ chủ trì buổi họp của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ở Tỉn Keo, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên bàn về kế hoạch chiến lược Đông Xuân 1953-1954. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trình bày về ý đồ táo tợn của tướng Pháp H.Nava là tập trung một lực lượng cơ động rất lớn ở đồng bằng Bắc Bộ để khiêu chiến, làm tiêu hao chủ lực của ta, tạo điều kiện để giành quyền chủ động và tiến tới giành một thắng lợi quyết định trong vòng 18 tháng. Bác nghe chăm chú rồi nói: “Địch tập trung quân cơ động để tạo sức mạnh… Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn”. Bàn tay Bác mở ra, mỗi ngón trỏ về một hướng. Theo tư tưởng chỉ đạo ấy, ta đã nghiên cứu kế hoạch Đông Xuân, cho những bộ phận chủ lực của ta tiến về 5 hướng chiến lược nhằm những nơi hiểm yếu và tương đối yếu của địch, chọn hướng chính là Lai Châu ở Tây Bắc. Chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược, một cuộc đọ sức toàn diện nhất, quyết liệt nhất giữa ta và địch. Thắng, bại của quân dân ta trong chiến dịch này sẽ có ảnh hưởng lớn đối với dân tộc ta và nhân dân thế giới đang chiến đấu vì độc lập, tự do. Vì vậy, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải có quyết tâm và nỗ lực rất cao. Ngày 6/12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng Tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Người chỉ thị cho Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy toàn dân, toàn quân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được…”
Năm 1965 (Ất Tỵ)
Trước thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Chúng dùng mọi thủ đoạn, mọi phương tiện hiện đại đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng hải quân, không quân kể cả máy bay chiến lược B.52. Trước những hành động leo thang xâm lược tàn bạo của đế quốc Mỹ, Bác khẳng định: “dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”. Người đã ra Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước, Người nói: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Ngày 11-12-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng thảo luận về tính chất cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Năm 1965, khi tròn 75 tuổi, Bác Hồ bắt tay vào viết Di chúc với nhan đề “Tuyệt đối bí mật” chúc. Lúc này, đồng bào và chiến sĩ cả nước đang sôi nổi thi đua lập thành tích chúc thọ Bác. Từ ngày 10 đến ngày 14/5/1965, mỗi ngày Người dành từ một đến hai tiếng để viết và đã hoàn thành bản thảo Di chúc đầu tiên gồm 3 trang, do chính Người tự đánh máy, ở cuối đề ngày 15/5/1965. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản vô giá của Đảng và nhân dân ta, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn về nhiều mặt; là sự kết tinh của tinh hoa văn hóa dân tộc với tinh hoa văn hóa của nhân loại, là những chỉ dẫn quý báu, nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Di chúc là những lời căn dặn tâm huyết, toát lên khí phách, tinh thần lạc quan chiến thắng của một bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng”, là sự kết tinh tư tưởng, đạo đức, phong cách, tâm hồn cao đẹp của vị lãnh tụ suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân và nhân loại. Bản Di chúc cũng là ánh sáng soi đường, là sức mạnh thôi thúc hành động cho cách mạng Việt Nam phát triển đi lên, cho đất nước ta phồn vinh, cho nhân dân được tự do, no ấm và hạnh phúc, không chỉ đối với nhân dân ta mà còn đối với các dân tộc đang đấu tranh cho tự do, độc lập, hòa bình, công lý, vì hạnh phúc của con người.
Những mốc thời gian các năm Tỵ trong cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh: 1893, 1905, 1917, 1929, 1941, 1953, 1965 đã và sẽ mãi trở thành những năm tháng không thể nào quên đối với Đảng, dân tộc và các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau.
Một mùa xuân mới đang về, mừng Đảng ta 95 tuổi, mừng miền Nam tròn 50 năm được giải phóng, đất nước thống nhất, hướng tới chào mừng kỷ niệm 135 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và lễ hội Làng Sen, cùng ôn lại công lao to lớn và tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách sáng ngời của Bác để chúng ta có thêm động lực xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh giàu đẹp, văn minh, để vườn xuân đất nước ngày càng nảy lộc, đơm hoa, kết trái./.
Tài liệu tham khảo
- Hồ sơ lưu tại kho tư liệu KDT Kim Liên
- Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh ủy Nghệ Tĩnh: Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ, trang 161.
- Hồ Chí Minh: Tiểu sử, Nxb. Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, trang 23,24,29,30,31.
- Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, tập 5, trang, 399, 429.
Lê Hà
- ĐOÀN CÔNG TÁC BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG VỀ THĂM KHU DI TÍCH KIM LIÊN
- KHU DI TÍCH KIM LIÊN NÓI CHUYỆN CHUYÊN ĐỀ TẠI QUẢNG NINH
- THEO GƯƠNG BÁC TRONG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN
- TẤM LÒNG HIẾU NGHĨA CỦA BA CHỊ EM BÁC HỒ VỚI BÀ HOÀNG THỊ LOAN
- ĐỒNG CHÍ UÔNG CHU LƯU – PHÓ CHỦ TỊCH QUỐC HỘI VỀ THĂM KHU DI TÍCH KIM LIÊN