Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc – thân phụ Chủ tịch Hồ Chí Minh. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh).
Nguyễn Sinh Cung (tên gọi thuở thiếu thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh) sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, sống gần gũi với nhân dân lao động. Sự hi sinh, yêu thương của người mẹ và tấm lòng bao dung, độ lượng của người cha, sự sẻ chia, gắn bó của các anh chị đã đem đến cho cậu bé Nguyễn Sinh Cung một tuổi thơ thật đầm ấm, yên bình bên gia đình. Đó là một trong những nhân tố quan trọng hình thành nên tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong bài viết này, tác giả xin được khái quát lại một số hiểu biết về cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và những ảnh hưởng của cụ đến nhân cách và tư của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Vài nét về cuộc đời cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc
Ông Nguyễn Sinh Sắc sinh năm Nhâm Tuất (1862) tại làng Kim Liên, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đường, nay là xóm Sen 2, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ Nguyễn Sinh Nhậm (hay còn gọi là Nguyễn Sinh Vượng). Mẹ là cụ Hà Thị Hy. Xuất thân trong một gia đình nông dân, năm ông Sắc 3 tuổi cha qua đời, một năm sau mẹ cũng mất. Ông sống cùng người anh trai cùng cha khác mẹ là Nguyễn Sinh Trợ (còn gọi là Nguyễn Sinh Thuyết).
Mồ côi cha mẹ từ sớm, gia đình gặp nhiều khó khăn nên từ nhỏ Nguyễn Sinh Sắc đã phải lao động vất vả, không có điều kiện đi học, nhưng ông sớm có ý chí tự lập. Với tố chất thông minh, chịu khó và ham học nên Nguyễn Sinh Sắc tranh thủ lúc dắt trâu ra đồng, qua cổng nhà thầy Vương Thúc Mậu ghé vào nghe lỏm những bài giảng của thầy. Ngoài ra, ông còn học hỏi qua những bạn bè đồng trang lứa, nên dù không được đi học nhưng ông vẫn học được ít nhiều chữ nghĩa.
Cụ Hoàng Đường là một thầy đồ ở làng Hoàng Trù (làng Chùa) thường hay sang quê ngoại ở Làng Sen và ghé thăm ông Vương Thúc Mậu. Rất nhiều lần cụ Hoàng Đường bắt gặp cậu bé Sắc đang chăm chú đọc sách trên lưng trâu, nên cụ rất có cảm tình với người học trò nghèo ấy. Đặc biệt, vào dịp Tết năm Mậu Dần, trong khi những đứa trẻ khác tại Làng Sen thường thích thú và mải mê với những trò chơi thì Nguyễn Sinh Sắc lại say sưa với những quyển vở trên lưng trâu. Hình ảnh đó đã gây cho nhà nho Hoàng Đường niềm xúc động sâu sắc. Hiểu rõ hoàn cảnh của cậu bé Nguyễn Sinh Sắc, cụ bàn với gia đình người anh trai Nguyễn Sinh Trợ xin đem Nguyễn Sinh Sắc về nuôi và cho ăn học.
Được sự đồng ý của anh trai, từ đó, Nguyễn Sinh Sắc về nhà cụ Hoàng Đường sinh sống và có điều kiện học hành. Không phụ lòng tin của cụ Hoàng Đường, Nguyễn Sinh Sắc chăm chỉ, học hành tấn tới, hứa hẹn con đường khoa cử vô cùng tươi sáng. Nguyễn Sinh Sắc còn được cụ Hoàng Đường gả người con gái lớn là Hoàng Thị Loan làm vợ.
Năm 1894, Nguyễn Sinh Sắc tham dự kỳ thi Hương [1] và đậu Cử nhân. Giữa năm 1895, ông vào Huế dự khoa thi Hội nhưng không đậu. Sau đó, ông xin vào học tại Trường Quốc Tử Giám. Do học bổng của trường ít ỏi, kinh tế lại khó khăn, ông trở về Hoàng Trù và nhờ sự giúp đỡ của gia đình. Để giúp chồng, bà Hoàng Thị Loan đã đưa hai con trai theo chồng vào Huế. Tại Huế, vợ chồng ông Nguyễn Sinh Sắc nhờ người quen mượn được ngôi nhà nhỏ làm chỗ ở, nay là nhà số 112, đường Mai Thúc Loan. Tại đây, bà Hoàng Thị Loan làm nghề dệt vải để trang trải sinh hoạt gia đình và phụ giúp chồng tiền ăn học. Ông Nguyễn Sinh Sắc ngoài thời gian dùi mài kinh sử thì đi chép chữ thuê để kiếm sống. Năm 1898, ông tham dự kỳ thi Hội lần thứ hai nhưng vẫn không đỗ. Hoàn cảnh gia đình càng lúc càng khó khăn. Thông cảm với cảnh ngộ ấy, ông Nguyễn Sinh Sắc được giới thiệu đến dạy học nhà ông Nguyễn Sĩ Độ ở làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang. Với lối dạy dễ hiểu, dễ nhớ, ông Nguyễn Sinh Sắc được học trò xứ Huế rất yêu quý. Ông đã để lại những hình ảnh tốt đẹp về một người thầy tận tình và uyên bác.
Tháng 8 năm Canh Tý 1900, ông Nguyễn Sinh Sắc được cử đi coi thi tại Trường thi Hương ở Thanh Hóa. Sau khi công việc chấm thi kết thúc, ông trở lại quê thăm mẹ vợ và tu sửa phần mộ cho cha mẹ ở Kim Liên. Trong thời gian này, gia đình ông gặp biến cố lớn khi người vợ hiền và con trai út của ông lần lượt qua đời. Thấy không thể tiếp tục sống tại Huế, ông đưa con trai về lại quê nhà. Được sự động viên của gia đình, ông Nguyễn Sinh Sắc quyết tâm vào Kinh dự Khoa thi Hội năm Tân Sửu.
Khoa thi Hội [2] nămTân Sửu (1901), ông Nguyễn Sinh Sắc đậu Phó bảng. Ông đỗ đồng khoa với Tiến sĩ Ngô Đức Kế và Phó bảng Phan Chu Trinh. Kể từ khoa thi này, những người đậu Phó bảng được hưởng hai đặc ân của chính bảng, được vua ban áo, mũ, cờ, biển và cho hưởng lễ vinh quy bái tổ. Trong lễ xướng danh, ông Nguyễn Sinh Sắc được vua Thành Thái ban biển “Ân tứ ninh gia” (Ơn ban cho gia đình tốt) và cấp phương tiện đưa về đến Vinh. Nhân dân trong làng gọi ông là cụ Phó bảng. Về quê, ông vào sổ làng cho hai con với tên mới là Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành, với mong muốn hai con thành đạt.
Dưới triều Nguyễn, việc tổ chức các khoa thi không ngoài mục đích kén chọn nhân tài, bổ sung quan chức cho chính quyền. Đây là công việc trọng đại được triều đình rất quan tâm. Do đó, kết quả các khoa thi với họ tên, quê quán, danh hiệu, chức tước của những người đỗ đạt đều được triều đình ghi chép chính xác và công bố rộng rãi dưới hình thức xướng danh, yết bảng, làm các bảng sao lục để lưu giữ ở triều đình.
Trong quá trình tra cứu tài liệu để biên soạn sách về các nhà khoa bảng Việt Nam, các cán bộ Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV đã tìm thấy tấm Mộc bản về cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tài liệu Mộc bản khắc nằm trong bộ sách Quốc triều Hương khoa lục, thuộc khối tài liệu Mộc bản triều Nguyễn; có kích thước 37×21,2cm, khổ khuôn in 20,5x27cm; có ký hiệu hồ sơ: H62/7, quyển 05, mặt khắc 06, đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV. Năm 2009, Mộc bản Triều Nguyễn đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới. Những thông tin về cụ Nguyễn Sinh Sắc được khắc trên Mộc bản, dịch nghĩa là: Nguyễn Sinh Sắc, quê quán: Chung Cự, Nam Đàn (Nghệ An), đỗ Cử nhân năm 21 tuổi, đỗ Phó Bảng, làm quan chức Tri huyện Bình Khê. Đây là nguồn sử liệu chính thống, rất quý giá ghi chép thông tin xác thực về thân thế và con đường khoa cử của cụ Nguyễn Sinh Sắc.
Ảnh chụp: Mộc bản khắc về cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh).
Mặc dù đỗ Phó bảng nhưng do thấy được sự mục ruỗng của triều đình phong kiến lúc bấy giờ, ông Nguyễn Sinh Sắc không muốn ra làm quan. Ông lấy lý do bị bệnh để ở lại quê nhà.
Trong 5 năm không ra làm quan, ông vẫn sống cuộc đời bình dị, thanh bạch, đầm ấm bên gia đìnhtrong ngôi nhà năm gian do nhân dân xã Chung Cự và bà con hai họ Nguyễn Sinh và Hoàng Xuân dựng. Ông sống gần gũi với bà con, làng xóm. Ông thường đến những nơi có phong trào chống Pháp sôi nổi, kết giao với những người yêu nước có tư tưởng “bài” phong kiến, chống Pháp như: Vương Thúc Quý, Phan Bội Châu, Đặng Thái Thân… Trong lúc đàm đạo với các nhà nho yêu nước, ông Nguyễn Sinh Sắc thường phê phán lối học đương thời là “chi diệp, chi văn” (lối văn trên cành, trên lá) thiếu thiết thực, các ông cũng đưa ra những trăn trở tại sao các cuộc khởi nghĩa lúc bấy giờ đều đi đến thất bại, tiêu biểu như khởi nghĩa của Phan Đình Phùng hay Nguyễn Xuân Ôn… và các ông thường bàn về vấn đề làm thế nào để giải phóng đất nước, làm sao cho dân hết khổ? Tuy nhiên, ông Nguyễn Sinh Sắc nhận ra rằng, con đường cứu nước của các sĩ phu đương thời khó có thể thành công vì còn nhiều hạn chế.
Với tài đức của mình, ông Nguyễn Sinh Sắc được mọi người quý mến, kính nể. Ông vinh dự được người dân xứ Nghệ liệt vào “tứ đại danh nhân” đương thời ở huyện Nam Đàn qua bài thơ Nam Đàn tứ hổ:
“Uyên bác bất như San
Tài hoa bất như Quý
Cường ký bất như Lương
Thông minh bất như Sắc” [1].
Đến năm 1906, sau thời gian trì hoãn việc làm quan, ông Nguyễn Sinh Sắc phải từ giã quê hương, đưa hai con trai vào Kinh đô và nhậm chức Thừa biện Bộ Lễ. Ông được phụ trách “công việc trường ốc” nên thường có mặt tại Di luân đường (Giảng đường của Quốc Tử Giám). Mỗi khi tiếp xúc với học trò, ông thường nói: “Quan trường thị nô lệ, trung chi nô lệ, hựu nô lệ”, (nghĩa là: làm quan là nô lệ, trong đám nô lệ, lại càng nô lệ hơn).
Tháng 5/1909, ông Nguyễn Sinh Sắc được triều đình cử đi chấm thi kỳ thi Hương tại Bình Định. Sau đó, ông được bổ nhiệm chức Tri huyện Bình Khê. Ngày 1/7/1909, ông Nguyễn Sinh Sắc nhậm chức Tri huyện Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Trong thời gian (từ tháng 7/1909 đến tháng 1/1910), ông đã để lại trong lòng người dân nơi đây hình ảnh một vị quan thanh liêm, đức độ, chính trực, yêu nước, thương dân. Ông luôn đứng về phía nhân dân, bênh vực người nghèo, tìm cách giúp đỡ những người yêu nước. Với tấm lòng khảng khái, yêu nước, thương dân, bất mãn với triều đình phong kiến mục ruỗng, ông Nguyễn Sinh Sắc không chú ý tới việc quan trường. Vì bênh vực lẽ phải, đứng về phía công lý và nhân dân, ông Nguyễn Sinh Sắc bị triều đình giáng cấp. Từ quan, ông đi nhiều nơi, liên lạc với những người yêu nước để tuyên truyền cách mạng và kêu gọi nhân dân sống đoàn kết, thủy chung. Tư tưởng yêu nước tiến bộ và nhân cách sống cao thượng đó của ôngNguyễn Sinh Sắc đã ảnh hưởng sâu sắc đến những người con của ông. Sau khi rời chốn quan trường, ông Nguyễn Sinh Sắc xuống Nam bộ làm nghề thầy thuốc, bắt mạch và kê đơn chữa bệnh cho dân nghèo.
Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc mất tại làng Hòa An, Cao Lãnh, Đồng Tháp ngày 27/10 năm Kỷ Tỵ (tức ngày 27/11/1929 dương lịch), hưởng thọ 67 tuổi.
Ảnh: Toàn cảnh Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc, thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. (Nguồn: Khu di tích cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, Đồng Tháp).
2. Những ảnh hưởng của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc tới Chủ tịch Hồ Chí Minh
a. Định hình nhân cách sống, góp phần hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng của Nguyễn Tất Thành
Ngày cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ Phó bảng, được Vua ban áo mũ, cờ biển và cho ngựa rước về quê: “Được lệnh quan Tổng đốc Nghệ An, dân làng Kim Liên, làng Hoàng Trù mang trống, chiêng, cờ, quạt, võng điều xuống Vinh đón ông Sắc. Dân làng đang trên đường đi thì gặp ông Sắc khăn gói khoác vai đi bộ về nhà. Dân làng khẩn khoản mời ông lên võng, ông không chịu. Dân phu giương cờ quạt, nổi trống chiêng mừng đón, ông không cho. Ông khuyên mọi người lặng trống chiêng, cuốn cờ quạt, cùng ông đi bộ về làng”[2]. Chính lối sống khiêm tốn, giản dị của cụ Nguyễn Sinh Sắc đã ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách sống và đạo đức làm người của các con, đặc biệt là Nguyễn Sinh Cung, mà sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hình ảnh người cha đỗ Phó bảng nhưng đi bộ về làng, hình ảnh cha cuốc đất làm vườn đã ăn sâu trong tâm trí Nguyễn Tất Thành. Điều này, giúp ta hiểu thêm vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc ở Việt Bắc hay cả khi về ở Hà Nội, ngày ngày Người đều cuốc đất, trồng cây, nuôi cá…
Đỗ làm quan, nhưng cụ lại viết lên xà nhà mấy chữ: Vật dĩ quan gia, vi ngô phong dạng (nghĩa là: Đừng lấy phong cách nhà quan làm phong cách nhà mình) để răn dạy các con. Đây là tư tưởng nghiêm khắc nhưng cũng rất tiến bộ của ông Nguyễn Sinh Sắc, vì ông không muốn các con học thói cửa quan, hách dịch mà xa rời nhân dân.
Mặc dù cụ Nguyễn Sinh Sắc dành tâm huyết rất lớn cho việc học tập, thi cử nhưng chưa bao giờ lơi là trong việc giáo dục con. Lúc nào cụ cũng chú ý tới việc dạy dỗ con. Từ cuộc sống của bản thân mình, cụ dạy cho các con đức tính kiên trì, chịu khó học tập.
Để bước đầu định hướng cho các con của mình, cụ Nguyễn Sinh Sắc cho hai người con trai theo học thầy Vương Thúc Quý – một nhà Nho có tư tưởng tiến bộ tại làng Kim Liên. Nhà thầy Vương Thúc Quý cũng chính là địa điểm mà các sĩ phu thường lui tới bàn bạc, đàm đạo. Có nhiều khi Nguyễn Sinh Cung được thầy giao cho nhiệm vụ tiếp nước những vị khách đặc biệt. Nhờ đó, cậu dần dần hiểu được thời cuộc, hiểu được nỗi đau của người dân sống trong cảnh “nước mất nhà tan”. Đồng thời, Nguyễn Sinh Sắc tạo điều kiện cho các con của mình được “tham gia” vào các buổi đàm luận với văn thân, sĩ phu ở khắp Trung kỳ. Có lần, Nguyễn Sinh Cung được cha cho theo ra Thái Bình trong dịp ông tìm gặp một số sĩ phu đất Bắc. Những chuyến đi đó là những trải nghiệm, khảo sát đầu tiên để Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành định hình được con đường đi cho riêng mình.
Cụ Nguyễn Sinh Sắc đã dùng nhiều phương pháp để dạy con. Trong đó, cụ thường lấy những di tích lịch sử, vẻ đẹp của quê hương, đất nước; về công lao chiến đấu gian khổ chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước của tổ tiên để dạy con. Dù còn nhỏ tuổi, nhưng với tư chất thông minh, hiếu học, lại được cha đặc biệt chăm sóc giáo dục, thường xuyên kề cận bên cha, nên mọi lời nói, lời chỉ dạy, hành động hàng ngày của cụ Nguyễn Sinh Sắc đều có ấn tượng và tác động sâu sắc đối với Nguyễn Sinh Cung. Trong những buổi theo cha bàn việc nước, mặc dù bận việc dâng trà, nhưng cậu vẫn nghe được những điều các cụ bàn luận, việc mà các cụ ưu tư, lo lắng. Cậu hiểu được những trăn trở của cha và các sĩ phu đương thời. Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp… Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi” [3].
Như vậy, cụ Nguyễn Sinh Sắc chính là người thầy đầu tiên của các con. Chính cách sống và ý chí của cụ luôn là bài học đầu đời, là tấm gương cho cậu bé Nguyễn Sinh Cung. Những bài học từ cha, bài học từ thực tế bổ ích; những điều mắt thấy, tai nghe qua các buổi theo cha đàm đạo cùng các sĩ phu đã góp phần hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng của Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành- Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
b. Góp phần giúp con thực hiện ước mơ, hoài bão cứu nước, cứu dân
Với tư tưởng tiến bộ, năm 1905, ông Nguyễn Sinh Sắc xin cho hai con trai vào học tại Trường tiểu học bản xứ, thành phố Vinh. Đây được xem là một quyết định “khác người” của ông Nguyễn Sinh Sắc, bởi đây là ngôi trường đào tạo bằng ngôn ngữ Pháp. Theo lẽ thường, các nhà nho đương thời căm ghét thực dân Pháp, họ phủ nhận toàn bộ những thành tựu của nền văn hóa Pháp, không muốn cho con cái theo học chữ Tây, chữ Quốc ngữ. Nhưng với tư tưởng tiến bộ, ông Nguyễn Sinh Sắc đã lựa chọn cho các con mình ngôi trường đào tạo bằng tiếng Pháp. Cũng chính tại ngôi trường này, lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc với ba chữ: Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Sau này, Người có nhắc lại: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy” [4].
Năm 1906, khi vào Kinh đô nhậm chức, ông Nguyễn Sinh Sắc cho hai con trai theo học Trường Đông Ba. Đây là ngôi trường dạy 3 thứ chữ: chữ Hán, chữ Quốc ngữ và chữ Pháp, với mục đích đào tạo những người làm quan cho Pháp. Nhiều sĩ phu bảo thủ chống đối, bài bác nhưng cũng có nhiều kẻ hám danh cầu mong được vào học. Cụ Sắc cho con theo học ngôi trường này với một quan điểm khác. Cụ bày tỏ: muốn đánh kẻ thù phải học tiếng kẻ thù, để hiểu rõ kẻ thù. Cụ muốn tạo điều kiện cho con mình đi tìm câu trả lời cho những từ cậu đã hỏi ông về “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” mà ông chưa trả lời được. Để hiểu những từ đó, cũng như hiểu được cách đánh đuổi giặc Pháp chỉ có cách là phải hiểu Pháp. Đây là một điều có ý nghĩa quan trọng trong quá trình định hình nhận thức của Nguyễn Tất Thành. Càng học nhiều, hiểu biết nhiều, cậu càng suy nghĩ về những điều bàn luận của cha và các sĩ phu trước đây. Những gì học được, nghe thấy được, kèm theo lời giảng dạy của cha, đối với cậu là những bài học hết sức sống động, có ấn tượng mạnh mẽ. Càng ngày cậu càng nhận ra chân tướng kẻ thù của dân tộc và căm thù giặc ngày một thêm sâu sắc.
Sau đó, Nguyễn Sinh Sắc cho hai con học Trường Quốc học Huế. Được học tập tại hai ngôi trường này không chỉ giúp Nguyễn Tất Thành có điều kiện chứng kiến thực trạng xã hội của chế độ phong kiến triều Nguyễn mà còn được tiếp xúc với nền giáo dục và văn minh của Pháp. Qua đó, Nguyễn Tất Thành sớm nhận ra được bản chất của chế độ thực dân. Đằng sau ba chữ: Tự do, Bình đẳng, Bác ái là chế độ của những người ở tầng lớp trên đè nén, bóc lột những người dân lao động. Thực tế này đã nhen lên ngọn lửa yêu nước, thương dân và lòng căm thù giặc sâu sắc ở Nguyễn Tất Thành.
Đặc biệt, năm 1908, Nguyễn Tất Thành tham gia biểu tình chống thuế của nhân dân tỉnh Thừa Thiên. Cũng bởi sự kiện này, cụ Nguyễn Sinh Sắc đã bị thực dân Pháp khiển trách. Mặc dù là người rất nghiêm khắc trong việc dạy con, nhưng cụ Nguyễn Sinh Sắc vẫn thừa nhận quan điểm: “Phụ huynh bất năng cấm ước tử đệ” (nghĩa là cha mẹ không thể cấm đoán những ước mong của con cái). Vì vậy, sau hành động đó của con, cụ Nguyễn Sinh Sắc vẫn dạy bảo các con phải có những suy nghĩ và cách nhìn của riêng mình.
Sau này, trên đường đi vào Nam bộ, Nguyễn Tất Thành đã đến Bình Khê (Bình Định) thăm cha. Thấy con trai đến, cụ Nguyễn Sinh Sắc hỏi con: “Nước mất không lo đi tìm, tìm cha phỏng có ích gì” [5]. Đây chính là cách khơi dậy lòng yêu nước, tư tưởng cứu nước, cứu dân và đặt niềm tin ở con của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Câu nói của cha như một luồng gió mát, là động lực phi thường thôi thúc Nguyễn Tất Thành mạnh bước ra đi tìm đường cứu nước.
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi Văn Ba rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Từ đó, hai cha con không được gặp nhau nhưng vẫn luôn dõi theo tin tức của nhau. Cả hai cha con luôn xem nhau như những người bạn, người đồng chí cùng chí hướng.
Tóm lại, cuộc đời thanh bạch, với tấm lòng yêu nước, thương dân và ý chí, nghị lực phi thường của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã góp phần hình thành nên nhân cách cho Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Sự giáo dục của cụ Phó bảng không chỉ truyền cho Nguyễn Tất Thành trí tuệ, học vấn, mà cả lòng nhiệt huyết, chí khí mạnh mẽ và động lực để thực hiện ước mơ, hoài bão cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc. Tư tưởng, đạo đức, phong cách cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương phản chiếu rõ nhất những đức tính tốt đẹp của cha. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng cho đến khi về với thế giới người hiền, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn canh cánh trong lòng bởi chưa một lần được vào Nam để viếng mộ cha cho tròn chữ hiếu. Nhưng nghĩ đến câu nói của cha: Cứu nước tức là hiếu với cha, Người cũng thấy an lòng. Đây cũng chính là quan điểm “Trung với nước, Hiếu với dân” [6] mà Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa từ cha mình – cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc./.
Chú giải:
[1]. Bảo tàng Hồ Chí Minh, đề tài khoa học cấp cơ sở: “Sưu tầm, xác minh, hệ thống hóa tư liệu về những người thân trong gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Hà Nội, 2016.[2]. Trần Văn Giàu, Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 17.
[3]. Hồ Chí Minh:Tiểu sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.21. [4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 1, tr.461. [5]. Thành Long, Xúc động thăm nơi Bác Hồ gặp phụ nhân lần cuối, theo website www.vov.vn, ngày 16-5-2020. [6]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.271.- Thi Hương là một khóa thi cử về Nho học do triều đình phong kiến tổ chức để tuyển chọn người có tài, học rộng ở các địa phương. Người thi đỗ được cấp bằng và có thể nhờ đó được vào làm quan chức trong triều chính. Thi Hương là kỳ thi sơ khởi nhất. Khoa thi Hương Giáp Ngọ – Niên hiệu Thành Thái thứ 6(1894) ở Trường Nghệ An có hơn 2000 thí sinh dự thi, Nguyễn Sinh Sắc xếp thứ 12 trong tổng số 22 người đỗ Cử nhân.
- Thi Hội là khoa thi bậc cao hơn thi Hương (Khoa thi cấp Quốc gia) dành cho những người đã đỗ Cử nhân hoặc tốt nghiệp Trường Quốc Tử Giám.
- Là chức trông coi việc học hành ở Quốc Tử Giám.
- ĐOÀN CÔNG TÁC THANH TRA BỘ QUỐC PHÒNG VỀ THĂM KHU DI TÍCH KIM LIÊN
- ĐOÀN NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM DÂNG HƯƠNG, DÂNG HOA TẠI KHU DI TÍCH KIM LIÊN VÀ TỔ CHỨC HỌC TẬP CHUYÊN ĐỀ “LÃNH ĐẠO NỮ NGÀNH NGÂN HÀNG HỌC TẬP TẤM GƯƠNG HỒ CHÍ MINH TRÊN QUÊ HƯƠNG BÁC”
- BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH KỶ NIỆM 50 NĂM THÀNH LẬP
- ĐOÀN ĐẠI BIỂU LỚP TẬP HUẤN NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC LỊCH SỬ QUÂN SỰ TOÀN QUÂN VỀ THĂM KHU DI TÍCH KIM LIÊN
- VÍ, GIẶM MẠCH NGUỒN NUÔI DƯỠNG TÂM HỒN CON NGƯỜI XỨ NGHỆ