ÔNG PHÓ BẢNG NGUYỄN SINH SẮC – MỘT VỊ QUAN THANH LIÊM SUỐT ĐỜI VÌ DÂN

     Trong dòng chảy lịch sử dân tộc, có những con người mà cuộc đời và nhân cách của họ lặng lẽ nhưng bền bỉ góp phần tạo nên nền tảng tinh thần cho bao thế hệ. Ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc – thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một nhân cách như thế. Dẫu cuộc đời ông trải qua nhiều biến động, từ một người đỗ đại khoa đến một vị quan thanh liêm gương mẫu rồi trở thành nhà hoạt động xã hội gắn bó với dân nghèo Nam Bộ, nhưng ở đâu và lúc nào, ông cũng thể hiện tấm lòng thương dân, yêu nước, giàu nhân nghĩa. Nhân dịp kỷ niệm 96 năm ngày mất của ông (1929 – 2025), chúng ta cùng nhìn lại cuộc đời và những đóng góp âm thầm mà vô cùng to lớn của người trí thức yêu nước Nguyễn Sinh Sắc.

    1. Sự hình thành nhân cách của một bậc trí thức

     Nhân cách của bậc trí thức Nguyễn Sinh Sắc được hình thành từ sự kết tinh của ba yếu tố căn bản: quê hương giàu truyền thống văn hóa – gia đình nho học mẫu mực – và tuổi thơ nhiều thử thách nhưng thấm đượm tình người.

     Ông Nguyễn Sinh Sắc sinh năm Nhâm Tuất (1862) tại làng Kim Liên, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đường (nay là xóm Sen 2, xã Kim Liên, tỉnh Nghệ An) – một vùng quê xứ Nghệ nổi tiếng “địa linh nhân kiệt”. Nguyễn Sinh Sắc lớn lên giữa không gian văn hóa đậm nét hiếu học và nghĩa tình, giàu truyền thống yêu nước. Khí hậu khắc nghiệt, cuộc sống gian nan của mảnh đất quê hương đã sớm rèn luyện ở ông ý chí mạnh mẽ, tinh thần vượt khó và lòng cảm thông đối với những phận người lam lũ. Xứ Nghệ không chỉ là nơi hun đúc trí tuệ mà còn là môi trường hun đúc đạo lý “trung, hiếu, nghĩa, nhân”, trở thành nền tảng đạo đức bền vững trong con người ông. Chính mạch nguồn văn hóa ấy đã nuôi dưỡng trong ông tinh thần ham học hỏi, ý chí vượt khó và tấm lòng son sắt hướng về dân tộc.

     Gia đình là chiếc nôi quan trọng nuôi dưỡng phẩm chất của Nguyễn Sinh Sắc. Cha ông – cụ Nguyễn Sinh Nhậm – là người ham học, có chí khí, dù cuộc đời nhiều biến cố vẫn sống thanh bạch và giữ trọn đạo làm người. Mẹ ông – bà Hà Thị Hy – một người phụ nữ tài hoa, xinh đẹp nổi tiếng với tài hát và múa. Trong không khí gia đình ấy, cậu bé Sắc được giáo dục bằng cả lời dạy và nếp sống hằng ngày: trọng chữ nghĩa, yêu lao động, thương người, sống khiêm nhường mà quyết đoán. Những giá trị gia phong truyền thống thấm vào ông, trở thành động lực để ông phấn đấu học tập và rèn luyện.

     Mồ côi cha mẹ từ sớm, gia đình gặp nhiều khó khăn nên Nguyễn Sinh Sắc đã phải lao động vất vả, không có điều kiện đi học. Nhưng từ nhỏ, Nguyễn Sinh Sắc đã nổi tiếng thông minh, hiếu học. Ông được nhà nho Hoàng Xuân Đường (sau này trở thành bố vợ ông) nhận về nuôi và cho ăn học. Với ý chí mạnh mẽ, ông kiên trì đèn sách và sớm bộc lộ khí chất của một người học trò nghèo nhưng có chí lớn. Năm 1894, ông đỗ Cử nhân, và đến năm 1901, tại kỳ thi Hội ở kinh đô Huế, ông đỗ Phó bảng – một trong những học vị cao nhất trong khoa bảng Nho học Việt Nam.

     Tuổi thơ của Nguyễn Sinh Sắc tuy thiếu thốn nhưng giàu trải nghiệm nhân sinh. Ông chứng kiến cảnh đời cơ cực của người dân quê, những ngang trái của xã hội đương thời… Chính những trải nghiệm ấy nuôi dưỡng trong ông lòng thương dân sâu sắc và khát vọng trở thành người có ích cho đời. Con đường học vấn đầy gian khó đã tôi luyện ý chí kiên trì, còn tấm lòng hiền lành, ngay thẳng của cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi đã bồi đắp cho ông đức tính liêm chính, công bằng.

      Nhờ sự kết hợp hài hòa từ quê hương, gia đình và tuổi thơ, Nguyễn Sinh Sắc trưởng thành thành một bậc trí thức uyên thâm, một vị quan thanh liêm, sống vì dân vì nước. Nhân cách của ông trở thành điểm tựa tinh thần cho thế hệ sau và là một phần quan trọng trong nguồn mạch truyền thống của gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh.

     Sự thành đạt của ông là niềm tự hào của quê hương Nghệ An và gia đình họ Nguyễn Sinh. Nhưng điều đáng quý hơn cả ở ông là luôn sáng ngời nhân cách trong sạch, lòng thương dân và khát vọng góp sức mình vào việc nước.

     2. Một vị quan thanh liêm, suốt đời vì dân

     Sau khi đỗ Phó bảng, Nguyễn Sinh Sắc được bổ nhiệm làm quan trong triều đình nhà Nguyễn. Con đường làm quan của ông diễn ra trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, triều đình ngày càng nhu nhược, tham quan, cường hào nổi lên khắp nơi. Trong môi trường đó, ông Sắc vẫn giữ được phẩm chất chính trực, thanh liêm, quyết chống lại mọi biểu hiện bất công. Dù biết hành động của mình có thể gặp nguy hiểm, ông vẫn kiên quyết đứng về phía dân, bởi với ông, đó là bổn phận thiêng liêng của người làm quan.

     Ông quan niệm: “Làm quan phải để giúp dân, vì dân mà hành xử”.
Trong thời gian làm quan tại Bình Khê, ông đã kiên quyết xử lý bọn cường hào, địa chủ áp bức dân lành. Tuy nhiên, chính vì sự quyết liệt ấy mà ông bị kẻ xấu gièm pha, và triều đình Huế – vốn đã bị ảnh hưởng sâu của thực dân Pháp – đã vin cớ “xét xử sai phạm” để giáng chức và thải hồi khỏi chức quan của ông vào đầu năm 1910. Ông rời bỏ quan trường nhưng không rời bỏ trách nhiệm với dân. Ông dừng chân ở nhiều vùng quê nghèo, dạy chữ, chữa bệnh, giúp đỡ người khó khăn bằng những điều giản dị mà chân thành. Người dân Nam Bộ yêu thương, kính trọng; bởi ở ông, họ tìm thấy một tấm lòng bao dung, nhân hậu và sự công bằng mà họ từng mong mỏi ở những người cầm quyền. Dù cuộc sống nay đây mai đó, không nhà cửa ổn định nhưng ông vẫn giữ được lý tưởng phụng sự và lòng thương dân sâu sắc.

     Cuộc đời của ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc vì thế trở thành biểu tượng đẹp về một vị quan thanh liêm, hết lòng vì dân. Tấm gương ấy không chỉ tỏa sáng trong lịch sử mà còn tiếp tục truyền cảm hứng cho thế hệ hôm nay về lòng trung nghĩa, lương thiện và tinh thần phụng sự cộng đồng.

     3. Người truyền cảm hứng yêu nước cho thế hệ trẻ

     Ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là một trong những tấm gương tiêu biểu đã truyền cảm hứng yêu nước sâu sắc cho thế hệ trẻ Việt Nam đầu thế kỷ XX, trong đó có cả những người học trò và đặc biệt là người con trai của mình – Nguyễn Sinh Cung, sau này trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở ông, lòng yêu nước không phải những lời nói lớn lao mà là lối sống, nhân cách và hành động cụ thể. Ngay từ khi còn là một nhà nho trẻ tuổi, ông luôn nuôi trong mình khát vọng góp phần giúp dân, cứu nước. Khi đỗ Phó bảng và làm quan, ông giữ vững phẩm chất liêm khiết, dũng cảm chống lại cường hào, bảo vệ quyền lợi cho người dân nghèo. Chính sự chính trực ấy đã trở thành bài học sống động về tinh thần vì dân, vì nước cho biết bao người trẻ đương thời.

     Khi rời quan trường, ông không từ bỏ lý tưởng mà chọn cách sống gần dân, hòa với dân để lan tỏa những giá trị đạo đức và tinh thần yêu nước. Ông dạy chữ, dạy đạo lý, chữa bệnh và khuyến khích người dân sống nhân nghĩa, đoàn kết. Những lớp học nhỏ nơi vùng quê Nam Bộ, những buổi trò chuyện giản dị bên mái nhà lá chính là môi trường mà ông gieo vào lòng thế hệ trẻ niềm tin vào tri thức, lòng tự trọng và ý thức về trách nhiệm đối với đất nước. Ông tin rằng thế hệ trẻ phải là lực lượng tiên phong, phải được giáo dục bằng sự gương mẫu, bằng tấm lòng chân thành hơn là bằng những lời huấn dụ cao xa.

     Đặc biệt, trong cách nuôi dạy con, ông luôn khuyến khích Nguyễn Sinh Cung rèn luyện bản lĩnh độc lập, nuôi dưỡng hoài bão lớn và dám ra đi tìm con đường cứu nước mới. Ông không áp đặt con theo lối mòn mà tạo cho con tinh thần tự do suy nghĩ, tự do lựa chọn lý tưởng. Chính nhờ sự giáo dục giàu nhân văn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này đã trở thành người chiến sĩ cách mạng kiên cường, người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.

     Có thể nói, qua chính cuộc đời mình, ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã trở thành ngọn lửa âm thầm nhưng bền bỉ, truyền đi thông điệp yêu nước mạnh mẽ cho thế hệ trẻ: hãy sống tử tế, nuôi dưỡng lý tưởng và sẵn sàng cống hiến cho Tổ quốc. Di sản tinh thần ấy vẫn tiếp tục soi sáng hành trình của các thế hệ hôm nay và mai sau.

     4. Những năm tháng cuối đời tại Nam Bộ

      Đây là quãng đời tuy lặng lẽ nhưng lại rực sáng nhất về nhân cách và tấm lòng của một bậc hiền sĩ yêu nước. Sau khi rời quan trường, ông không trở về quê sống an nhàn mà chọn hành trình dừng chân ở nhiều vùng đất Nam Bộ như Sa Đéc, Vĩnh Long, Cao Lãnh. Ở nơi nào, ông cũng hòa mình vào đời sống bình dị của người dân, sống bằng nghề dạy học, bốc thuốc chữa bệnh và giúp đỡ những người nghèo khó. Bà con nơi đây kính trọng gọi ông bằng những cái tên thân thiết như “Cụ Nguyễn Sinh Huy”, “Ông Sáu” hay “Thầy Nhất”. Chính sự giản dị, hiền hòa và tấm lòng thương dân của ông khiến người dân xem ông như một người thân trong gia đình.

     Tại Cao Lãnh, nơi ông gắn bó lâu nhất, ông không chỉ là một thầy thuốc giỏi mà còn là một người thầy đạo đức, luôn giảng giải đạo lý sống nhân nghĩa, đoàn kết, thương yêu lẫn nhau. Dù đời sống vật chất rất thiếu thốn, ông vẫn giữ lối sống thanh bạch, không màng danh lợi, chỉ mong làm điều thiện để giúp dân. Những năm cuối đời, sức khỏe suy yếu nhưng ông vẫn kiên trì phụng sự cộng đồng theo cách giản đơn nhất của mình. Ông qua đời tại Cao Lãnh vào ngày 27 tháng 10 năm 1929, để lại sự tiếc thương vô hạn trong lòng người dân địa phương. Ngày nay, Khu Di tích Nguyễn Sinh Sắc ở Đồng Tháp không chỉ là nơi tưởng niệm ông, là điểm đến thiêng liêng, mà còn là biểu tượng về lòng trung nghĩa, đức liêm khiết và tình yêu thương nhân dân sâu nặng của một con người suốt đời tận hiến cho dân tộc.

     5. Giá trị tư tưởng và di sản đạo đức của ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc

     Dù không trực tiếp cầm quân hay lãnh đạo phong trào lớn, nhưng cuộc đời và nhân cách của ông Sắc để lại cho hậu thế một kho tàng quý báu, góp phần quan trọng vào dòng chảy truyền thống văn hóa – lịch sử của dân tộc Việt Nam. Sinh ra trong bối cảnh đất nước đầy biến động bởi ách đô hộ thực dân, trưởng thành trong môi trường văn hóa Nho học giàu nhân nghĩa, ông đã sớm hình thành một hệ giá trị vững chắc, xuyên suốt cả cuộc đời: thanh liêm, chính trực, thương dân và yêu nước. Dù ở cương vị quan lại hay một người bình dân giữa cuộc đời bôn ba, ông vẫn giữ trọn nhân cách của người trí sĩ, lấy đạo đức làm nền, lấy dân làm gốc. Đó là điểm cốt lõi tạo nên tầm vóc của ông và cũng là giá trị bền vững nhất được hậu thế tôn vinh.

     Trên con đường làm quan, Nguyễn Sinh Sắc nổi bật bởi sự trong sạch và tinh thần chống lại tham quyền, cường hào. Ông luôn kiên quyết bảo vệ lẽ phải, bảo vệ người dân yếu thế, xem việc giúp dân thoát khỏi cảnh áp bức là trách nhiệm và bổn phận thiêng liêng. Việc ông bị cách chức không phải vì lỗi lầm, mà vì sự liêm chính ấy va chạm với bộ máy phong kiến nhu nhược và tha hóa. Chính lựa chọn rời bỏ quan trường càng khẳng định một giá trị tư tưởng lớn: giữ trọn đạo làm người quan trọng hơn danh lợi.

     Trong những năm tháng phiêu bạt ở Nam Bộ, ông Sắc đã sống giữa nhân dân, dạy học, bốc thuốc, truyền bá đạo lý làm người. Ở đâu ông cũng đem đến tri thức, sự nhân hậu, tinh thần đoàn kết và niềm tin vào lẽ công bằng. Ông hòa mình với cuộc sống của dân nghèo, dùng trí tuệ và tấm lòng để cứu người, cảm hóa người. Đây chính là di sản đạo đức sâu sắc nhất: hiến mình cho cộng đồng một cách âm thầm mà bền bỉ, không đòi hỏi danh xưng hay ghi nhận.

     Di sản của ông Phó bảng còn được thể hiện rõ nét trong sự hình thành tư tưởng và nhân cách của các con, đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tinh thần độc lập, lòng thương dân, sự giản dị, ý chí vượt khó của Người có cội nguồn từ chính tấm gương sống của người cha. Có thể nói, ông Sắc đã vun đắp một nền tảng đạo đức – tinh thần góp phần tạo nên một trong những lãnh tụ vĩ đại nhất của dân tộc và nhân loại.

     Kỷ niệm 96 năm ngày mất của ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (27/10/1929 – 27/10/2025) không chỉ là dịp để tri ân một bậc trí thức yêu nước, mà còn để mỗi chúng ta suy ngẫm về những giá trị đạo đức cao đẹp ông để lại. Cuộc đời ông là tấm gương sáng về khí tiết nhà Nho, sự thanh liêm, lòng thương dân và tinh thần yêu nước bền bỉ. Chính điều đó khiến tên tuổi ông sống mãi trong lòng nhân dân và lịch sử dân tộc Việt Nam./.

 VƯƠNG NGA

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *