Nhà thờ thầy giáo Nguyễn Thức Tự
Xứ Nghệ, từ xưa đã nổi tiếng là mảnh đất có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, đây không chỉ là nơi đã sản sinh ra nhiều bậc hiền tài, một đội ngũ đông đảo các nhà khoa bảng, mà còn là nơi có nhiều nhà giáo, nhiều thầy đồ nổi tiếng uyên thâm và giàu lòng yêu nước. Hình ảnh người thầy đồ xứ Nghệ đã trở thành một nét đặc trưng của văn hóa xứ Nghệ, và trong số những người thầy nổi tiếng đó, phải kể đến thầy Nguyễn Thức Tự.
Thầy Nguyễn Thức Tự (1841-1923), hiệu Đông Khê, quê ở làng Đông Chữ, xã Thịnh Trường huyện Nghi Lộc- là một vị quan có lòng yêu nước thương dân, một nhà sư phạm mẫu mực, người thầy của nhiều nhà văn hóa xuất sắc của dân tộc ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Ông sinh ra trong một gia đình dòng dõi, có ông ngoại là Hồ Phi Hội – một nhà nho uyên thâm, cố ngoại là Hồ Phi Tích – từng đỗ hoàng giáp và làm quan đến chức quận công. Anh rể của ông, chồng của bà Nguyễn Thị Quỳnh, chính là Hoàng Phan Thái, người nổi tiếng giỏi văn chương, đỗ đầu xứ, có nhiều giai thoại đặc sắc, đã tham gia khởi nghĩa chống Nam triều và bị chém đầu… Nguyễn Thức Tự được học với nhiều thầy giỏi như đốc học Võ Văn Dật, thám hoa Nguyễn Đức Đạt và tiến sĩ Phan Sĩ Thực. Ông thi đỗ đầu xứ vào năm 27 tuổi, sau đó đỗ cử nhân. Từ 1873, ông lần lượt làm Hậu bổ ở Hà Tĩnh, làm tri phủ các huyện Hương Khê, Thạch Hà, tri phủ Đức Thọ, cho đến năm 1880 thì giữ chức Chánh sơn phòng sứ tỉnh Hà Tĩnh, vì vậy người ta hay gọi ông là cụ Sơn. Trước sự suy tàn của triều Nguyễn, vua quan lo ăn chơi hưởng lạc, thực dân Pháp ngang nhiên từng bước xâm lược nước ta, nhân dân ta đói khổ, lầm than… Nguyễn Thức Tự trong quyền năng và chức trách của mình thẳng tay trừng trị những kẻ sâu mọt ở các làng xã, bênh vực dân lành. Lối sống thanh liêm của ông rất được nhân dân nể trọng. Khi phong trào Cần Vương chống Pháp nổ ra, Nguyễn Thức Tự nằm trong bộ tham mưu của nghĩa quân Phan Đình Phùng. Tuy không trực tiếp cầm gươm giết giặc nhưng ông đã cải trang thành thầy thuốc, thầy địa lý tới nhiều địa phương để nghiên cứu địa hình, vận động nhân dân xây dựng đồn lũy ở vùng rừng núi, vận động nhân dân tập hợp lực lượng để kháng chiến lâu dài, tích cực phò tá cụ Phan chống giặc giữ nước. Vào năm 1884, mẫu thân qua đời ông xin về chịu tang, rồi ở luôn tại nhà, không đi làm quan nữa. Triều đình nhiều lần cho mời, ông một mực từ chối, ông bắt đầu mở trường dạy và tiếp tục nghề nhà giáo hơn 30 năm cho đến khi mất.
Nguyễn Thức Tự nổi tiếng là một thầy giáo đạo cao đức trọng. Trường học của thầy mở ra, gọi là trường Đông Khê – một trường có tiếng tăm. Ông đã dạy đến trên 400 học trò, trong trong đó nổi lên là cả một thế hệ nhân tài của đất nước từ cuối thế kỷ XIX. Có những người học với thầy đỗ đạt cao, ra làm quan theo đường giáo giới hay chính giới, và đều giữ được phẩm chất của nhà nho, của con người trí thức chân chính. Tiêu biểu như Hoàng giáp Đinh Văn Chất, Hoàng giáp Nguyễn Đức Lý, các tiến sĩ Hoàng Kiêm, Nguyễn Mai, phó bảng Vương Đình Trâm, Nguyễn Thúc Đinh, Nguyễn Sinh Sắc, Đặng Nguyên Cẩn, Nguyễn Viết Tuyển… Có những người học vấn uyên thâm nhưng không tiến thân bằng con đường quan trường, mà đã dấn thân vào công cuộc cứu dân, cứu nước. Gần như những yếu nhân trong các phong trào Đông Du, Duy Tân, Việt Nam Quang Phục hội… đều là học trò của ông. Đó là những Đặng Thái Thân, Hoàng Trọng Mậu, Phạm Vân Ngôn, Ngô Đức Kế, Vương Thúc Quý, Đặng Thúc Hứa, Đặng Tử Kính, Trần Đông Phong, Đặng Văn Bá, Lê Văn Huân và lỗi lạc nhất là Phan Bội Châu.
Tương truyền rằng, Phan Bội Châu đã học nhiều thầy, 18 tuổi đậu đầu xứ, nhưng thi Hương mấy khoa đều hỏng. Đầu xứ Phan phải tìm đến học thầy Nguyễn Thức Tự, cách Nam Đàn 30 cây số. Mấy ngày đầu “tập” bài, bài của Phan đều bị thầy phê “liệt”, trò Phan kính cẩn hỏi ý thầy, được thầy trả lời một cách đặc biệt làm cho trò Phan phải giật mình suy ngẫm: “Chính tôi cũng nhận anh học giỏi và hay chữ hơn cả tôi. Song anh chưa đỗ thi Hương mà đã hành văn theo văn phong thi Hội, thi Đình nên tôi phải phê “liệt” để anh nhớ đổi cho đúng trường quy, đúng văn phong thi Hương hầu được đỗ mà thôi”. Đến khoa thi 1900, Phan Bội Châu đã đậu Giải nguyên. Theo lời của Phan Bội Châu, thì Nguyễn Thức Tự là thầy giáo không chỉ dạy chữ, dạy theo sách (kinh sư) mà là thầy dạy người (nhân sư). Có lẽ nội dung và cách thức giảng dạy của ông là làm sao cho học sinh trở thành con người xứng đáng là con người.
Cũng như ở một số trường học trước đây, Nguyễn Thức Tự có ý thức lưu giữ thành tựu và truyền thống của trường mình. Ông đã tập hợp các bài phú hay của các học sinh thành cuốn sách Đông Khê hiên luật phú, để làm kinh nghiệm học tập, làm bài cho các thế hệ học sinh, và cũng để đánh dấu những kết quả đào tạo của mình.
Vừa quan tâm đến giáo dục học đường, Nguyễn Thức Tự cũng có ý thức về giáo dục gia đình . Ông đã soạn ra tập Gia huấn ca để dạy dỗ con em. Những người con của ông đều trở thành các chiến sĩ cách mạng, bạn đồng chí của Phan Bội Châu. Gia đình của ông là gia đình văn hoá, đồng thời là gia đình cách mạng. Một đôi câu đối ghi ở sinh từ của ông, có thể nói được thực chất của gia đình Nguyễn Thức Tự, sự nghiệp giáo dục lớn lao của ông và sự ngưỡng mộ của các thế hệ trí thức, của toàn dân Nghệ An đối với ông:
Lục thuỷ thanh sơn, vũ trụ trường lưu xuân sắc
Tả đồ, hữu sử, gia đình vĩnh đại thủ hương
Bản dịch của Hoàng Anh Tài:
Đây nước biếc, đó non xanh, xuân sắc lâu dài trong vũ trụ
Tả bản đồ, hữu sử sách, gia đình bền vững nếp thư hương.
Nguyễn Thức Tự được các học trò đánh giá là bậc thầy về kinh sử cũng như về nhân cách. Ngay khi thầy đang sống, học trò của thầy và các sĩ phu đã quyên góp để xây nhà thờ và xây lăng cho thầy.
Ngày 25/4/1923, thầy Nguyễn Thức Tự qua đời, để lại niềm tiếc thương không nguôi trong lòng nhân dân và các thế hệ học trò thầy đã dày công vun trồng. Ngày thầy mất, Phan Bội Châu đang ở Trung Quốc để lãnh đạo phong trào Việt Nam quang phục Hội, đã làm bài văn điếu gửi về kính viếng thầy, trong đó có đoạn:
Đạo thông thiên địa/Học Bác cổ kim
Kinh sư dĩ đắc/Nhân sư nan tầm
Nghĩa là:
Đạo thông cả trời đất/Học rộng khắp xưa nay
Thầy dạy chữ dễ gặp/Thầy dạy người khó tìm
Sau khi thầy mất, nhà thờ là nơi học trò và con cháu đi lại tưởng nhớ thầy. Đây cũng là nơi hội họp của các phong trào yêu nước từ khởi nghĩa Phan Đình Phùng đến năm 1930 như: Hội Duy Tân hội họp (năm 1904), cơ sở của Hội Phục Việt (năm 1928), trụ sở của Đảng Tân Việt (năm 1929); là nơi ở và hoạt động của nhiều nhà cách mạng tiền bối như Nguyễn Phong Sắc, Phan Đăng Lưu, Hà Huy Tập… Trải qua hơn 100 năm tồn tại, bất chấp sự khắc nghiệt của thời gian và thiên tai, Nhà thờ Nguyễn Thức Tự vẫn được nhiều thế hệ học trò, con cháu, nhân dân giữ gìn, trân trọng. Đây là một trong những di tích tiêu biểu cho lòng yêu nước, tinh thần hiếu học của những người con Nghệ Tĩnh. Không chỉ là di tích mang nhiều giá trị về lịch sử, nhà thờ Nguyễn Thức Tự còn là công trình chứa đựng nhiều giá trị về mặt văn hóa. Với những giá trị nổi bật trên, nhà thờ Nguyễn Thức Tự đã được công nhận là di tích Lịch sử Văn hóa năm 1992. Đây là một công trình ghi dấu đậm nét về tình thầy trò, lòng tri ân sâu sắc của các thế hệ học trò cũng như nhân dân trong vùng đối với thầy Nguyễn Thức Tự – Người đã tô thắm thêm cho nét đẹp của hình ảnh thầy đồ Nghệ: đẹp về nhân cách, hay chữ, trọng danh, không chỉ truyền thụ cho học trò kiến thức uyên sâu, mà còn hun đúc trong họ tình thương dân yêu nước…
Tài liệu tham khảo:
- Trang TTĐT Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh: https://btxvnt.org.vn
- Cổng TTĐT UBND tỉnh Thừa Thiên Huế: https://thuathienhue.gov.vn
- Nghi Lộc hành trình hơn nửa thiên niên kỷ: https://baonghean.vn
- Lịch sử văn hóa huyện Nghi Lộc: http:// nghiloc.nghean.gov.vn
- Tài liệu lưu tại kho tư liệu Khu di tích Kim Liên
- KHU MỘ BÀ HOÀNG THỊ LOAN – NGÀY TRỞ VỀ
- NỮ CÔNG KHU DI TÍCH KIM LIÊN TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG TƯỞNG NIỆM, TRI ÂN NHÂN NGÀY PHỤ NỮ VIỆT NAM
- NHỮNG CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG TRONG CÔNG TÁC ĐÓN TIẾP KHÁCH THAM QUAN TẠI KHU DI TÍCH KIM LIÊN
- ĐOÀN ĐẠI BIỂU LÃNH ĐẠO THÀNH PHỐ EDESSA – HY LẠP THĂM QUÊ HƯƠNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
- CÓ MỘT TÌNH YÊU LỚN DẦN THEO NĂM THÁNG