Trong sự trưởng thành của Chủ tịch Hồ Chí Minh – từ một nhà yêu nước truyền thống trở thành người cộng sản, chiến sĩ quốc tế, người lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam có ảnh hưởng của quê hương hiếu học Nghệ An, sự giáo dục của gia đình, được lớn lên trong sự ân cần dạy bảo của người mẹ, sự dạy dỗ nghiêm khắc của người cha, và sự tự học của bản thân. Người ta thường nói mẹ là người thầy đầu tiên của con, Bà Hoàng Thị Loan – Thân mẫu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vun trồng, uốn nắn cho con những bài học đầu tiên về đạo lý làm người, bà đã truyền vốn hiểu biết văn hóa dân gian phong phú của mình cho con qua những lời ru ngọt ngào, chan chứa tình cảm.
Con ơi! Mẹ dặn câu này
Chăm lo đèn sách cho tày áo cơm
Làm người đói sạch rách thơm
Công danh phủi nhẹ nước non phải đền!
Chính điều này đã góp phần tạo nên tâm hồn rộng mở, tấm lòng nhân ái, nhen nhóm tình yêu quê hương đất nước sâu nặng trong tâm hồn cậu bé Nguyễn Sinh Cung (Tên gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời thơ ấu). Thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ông Nguyễn Sinh Sắc, ông đậu Phó bảng khoa thi Hội Tân Sửu năm 1901. Ông Phó bảng là một nhà nho có tư tưởng tiến bộ. Ông dạy các con: "Vật dĩ quan gia vi ngô phong dạng" (nghĩa là đừng lấy phong cách nhà quan làm phong cách nhà ta). Ông luôn giáo dục chí hướng, đạo đức, kiến thức và bồi đắp ý chí cho các con. Với thái độ bất hợp tác, ngầm chống đối thực dân phong kiến và lòng yêu nước, thương dân, sự thức thời của thân phụ đã có ảnh hưởng sâu xa đến việc hình thành và phát triển nhân cách và tư tưởng yêu nước, thương dân ở anh Nguyễn Tất Thành (Tên gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời niên thiếu). Ông Phó bảng là một nhân cách lớn, Nguyễn Tất Thành đã tiếp nhận được ở thân phụ mình về tấm gương ý chí kiên cường, quyết tâm vươn lên đỉnh cao của tri thức với nghị lực phi thường để đạt mục tiêu của mình.
Từ lúc lọt lòng mẹ, Nguyễn Sinh Cung đã được nuôi dưỡng trong tiếng hát của mẹ, những câu chuyện do bà ngoại và mẹ kể và những trò chơi dân gian của trẻ con trong làng. Những hiểu biết sơ giản về tự nhiên, lịch sử, quan hệ xã hội… là những bài học đầu tiên mà Nguyễn Sinh Cung tiếp nhận từ gia đình, quê hương. Những điều tiếp nhận này sống mãi trong tâm trí Hồ Chí Minh và tạo nên ở Người những đặc tính nổi bật của con người xứ Nghệ, mà dù có xa quê hương 50 năm, trong đó sống xa Tổ quốc 30 năm, cũng không hề bị phai mờ ở Người.
Quê hương nghĩa trọng tình cao
Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình
Khi lần đầu tiên vào Huế (1895), cậu đã nhìn thấy và nảy sinh thắc mắc về những cảnh “lạ”, “Vì sao có nhà cao to đẹp, lại có nhà thấp bé ?”, “Vì sao có ông Tây, ông quan to béo ngồi chễm chệ cho người phu xe gầy yếu kéo ?”… Biết bao nhiều điều mới lạ ở chốn kinh thành đập vào mắt cậu bé ở làng quê Kim Liên. Song cậu không chỉ ngạc nhiên mà còn tò mò, thắc mắc về những hiện tượng này. Cũng như lúc bé ở quê nhà khi nghe tiếng sấm, cậu Cung đã hỏi “Sấm ở đâu mà sinh ra”, bây giờ cậu lại hỏi mẹ với sự đăm chiêu, suy nghĩ: “Vì sao có những cảnh như vậy ?”. Làm sao mẹ có thể giải thích cho cậu con trai mới 5 tuổi hiểu được nguồn gốc sự bất công của xã hội có áp bức, bóc lột. Vì thế mẹ Hoàng Thị Loan chỉ nói: “Về điều này, lớn lên rồi con sẽ biết !”. Câu trả lời của mẹ không làm cho cậu Cung nản lòng vì “vấn đề khó, không thể biết được” và được khuyến khích: cố gắng học tập để lớn lên sẽ tự giải đáp. Vấn đề đặt ra và câu trả lời của mẹ đã được Hồ Chí Minh ghi nhớ và tìm hiểu suốt đời. Qua quan sát, học tập, suy nghĩ, Hồ Chí Minh đã dần dần hiểu được vì sao nhân dân ta khổ cực, mà cả nhân dân bị áp bức trên thế giới cũng bị nghèo khổ và phải làm gì để xoá bỏ sự bất công này, để nhân dân lao động được hạnh phúc, ấm no. (Các tư liệu và sự kiện này được tham khảo và trích dẫn từ nguồn tư liệu nghiên cứu của Tiến sỹ Bùi Thị Thu Hà – Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh về việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Trong thời gian ở Huế, gần cuối năm 1898, theo lời mời của ông Nguyễn Sĩ Độ, ông Nguyễn Sinh Sắc về dạy học cho một số học sinh ở làng Dương Nỗ, tại ngôi nhà của ông Nguyễn Sĩ Khuyến (em trai ông Nguyễn Sĩ Độ), xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, cách thành phố Huế 6 km. Nguyễn Sinh Cung cùng anh trai theo cha về đây và bắt đầu học chữ Hán tại lớp học của cha. Nguyễn Sinh Cung lúc bấy giờ đã 8 tuổi, được cụ cử Sắc giao cho Nguyễn Sĩ Khuyến (12 tuổi) kèm học. Bắt đầu học chữ Hán, Nguyễn Sinh Cung mới tập viết hàng tư, nhưng người học trò nhỏ ấy đã tỏ ra rất thông minh. Sách Luận ngữ 1 tập 8 tờ, 1 tờ 16 hàng, học vài ba lần là có thể xếp sách lại đọc được. Học xong, Nguyễn Sinh Cung thường ra Đình làng Dương Nỗ hay xuống Am Bà chơi, hoặc ra câu cá dưới bến.( Nguồn tư liệu sách Bác Hồ thời niên thiếu ở Huế – Nhà xuất bản Trẻ thành phố Hồ Chí Minh – của Nguyễn Đắc Xuân).
Được về sống ở làng Dương Nỗ, một làng quê yên ả, thanh bình, giàu truyền thống văn hoá, Nguyễn Sinh Cung có điều kiện hoà nhập với đời sống cộng đồng làng xã, được bao bọc bởi tình cảm yêu thương chan hoà, nhân hậu bao dung của những người dân quê chất phác, thuỷ chung, được chứng kiến cuộc sống lao động cần cù của những người nông dân lam lũ, đời sống đó đã góp phần hình thành nên cội nguồn nhân bản trong tâm hồn Người.
Ngày 10 – 2 – 1901, bà Hoàng Thị Loan qua đời. Đây là một tổn thất lớn cho cậu Nguyễn Sinh Cung; tuy nhiên trong đau thương này, khi mà cụ Nguyễn Sinh Sắc vắng nhà, mới thấy được sự chịu đựng quá sức của cậu bé lên 11 tuổi. Cảnh mẹ mất, cha vắng nhà, em khát sữa đã suốt đời khắc sâu vào tâm trí của Hồ Chí Minh. Sau khi mẹ mất Nguyễn Sinh Cung về quê ngoại sống với cụ Nguyễn Thị Kép – bà ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong những năm trở lại quê, Nguyễn Tất Thành được tiếp tục đi học chữ Nho với thầy Hoàng Phan Quỳnh tại nhà nhà thờ họ Phan Trọng ở Làng Hữu Biệt (nay là xã Nam Giang). Khi cụ Nguyễn Sinh Sắc đậu Phó bảng, gia đình về quê nội Làng Sen, Nguyễn Tất Thành lần lượt học với các thầy Vương Thúc Quý và thầy đồ Trần Thân. Vào thời gian này, Nguyễn Tất Thành đã tỏ rõ một học sinh nhanh nhẹn, thông minh, có trí nhớ tốt và bước đầu tỏ ra có những suy nghĩ sâu sắc. Điều này cũng do ảnh hưởng cách dạy của thầy Vương Thúc Quý – thầy thường dạy cho học sinh sách suy nghĩ để hiểu, chứ không theo cách “tầm chương trích cú”. Một lần thắp đèn, dầu vương ra sách, để thử sức học của học trò, thầy Quý ra câu đối: “Thắp đèn lên dầu vương ra đế” Một học trò lớn tuổi liền đối một câu rất chỉnh: “Đốt nhang rồi gió quạt bay tàn” Nguyễn Tất Thành cũng xin đối: “Cưỡi ngựa dong thẳng Tấn lên Đường”.Trong vế ra của thầy Quý có các từ “vương” và “đế”, vừa có nghĩa là “để dầu vương vãi ra đế đèn”, vừa ngụ ý chỉ các “bậc vua chúa, hoàng đế”; câu đối của Nguyễn Tất Thành có từ “Tấn” và “Đường”, vừa có nghĩa là “tiến lên đường” vừa hàm ý chỉ hai triều đại phong kiến trong lịch sử Trung Quốc – nhà Tấn xưng vương và nhà Đường xưng đế. Rõ ràng câu đối của Nguyễn Tất Thành rất chỉnh mà lại tỏ ra có khí phách của một con người luôn muốn vươn lên, không chịu khuất phục, nên được thầy khen. Nguyễn Tất Thành chỉ học với thày Quý một thời gian ngắn, nhưng đã tiếp nhận ở thầy tấm lòng yêu nước, ý chí cầu tiến mạnh mẽ, có lối học thông minh, thanh thoát, không nệ cổ… Ngày về thăm quê ( 1957) Bác đã hỏi thăm về người thầy của mình, Bác nói: “Thầy Vương Thúc Quý là thầy khai tâm của Bác” ( Nguồn tư liệu sách: Bác Hồ thời niên thiếu – NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội).
Năm 1903, Nguyễn Tất Thành theo cha đến xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An và tiếp tục học chữ Hán tại nhà thờ họ Lê Kim với thân sinh của mình. Năm 1904, Nguyễn Tất Thành theo cha sang làng Du Đồng, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, khi ông Sắc đến đây dạy học. Ngoài thời gian học tập, Nguyễn Tất Thành thường theo cha đến các vùng trong tỉnh như làng Đông Thái, quê hương của Phan Đình Phùng, thăm các di tích thành Lục niên, miếu thờ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, v.v
Ông Nguyễn Sinh Sắc là một nhà nho thức thời, sớm nhận thấy không thể cho các con mình cứ tiếp tục theo học chữ Hán ở trường làng khi thời thế đã đổi thay, tân học đã dần dần thay thế cho nho học. Bởi vì, cùng với việc xác lập nền đô hộ ở Việt Nam, thực dân Pháp cũng dần xây dựng nền giáo dục mới – giáo dục tư sản thực dân, để mong đào tạo một lớp người phục vụ cho chúng. Giáo dục thực dân tư sản là cơ sở thống trị của chế độ thuộc địa, nửa phong kiến. Tuy vậy, ông Sắc cũng nhận thức rằng phải cho các con mình tiếp xúc với Tây học để hiểu rõ hơn nước Pháp và các nước khác ở châu Âu.
Tháng 9-1905, thực hiện Nghị định của Toàn quyền Đông Dương, loại trường Pháp – bản xứ (École franco-indigène) được mở tại Vinh, tỉnh lỵ của Nghệ An, với lớp đầu tiên của bậc tiểu học, thường gọi là lớp dự bị (Cours préparatoire). Chương trình học nặng về tiếng Pháp, chỉ có một số ít giờ học chữ Hán.
Ngay khi trường mới được thành lập, Khoảng tháng 9 – 1905, Nguyễn Tất Thành và anh trai là Nguyễn Tất Đạt được cha xin cho theo học lớp dự bị Trường tiểu học Pháp – bản xứ ở thành phố Vinh. Tại đây, lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành nhìn thấy dòng chữ “LIBERTÉ, ÉGALITÉ, FRATERNITÉ” (Tự do – Bình đẳng – Bác ái). Nguyễn Tất Thành tìm hiểu và biết đó là khẩu hiệu nổi tiếng của Đại Cách mạng Pháp năm 1789. Đối với Nguyễn Tất Thành, đó là những điều hoàn toàn mới lạ, vì vậy, rất tự nhiên, anh nảy ra ý muốn “tìm hiểu những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy”.(Nguồn tư liệu sách: Bác Hồ thời niên thiếu NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội)
Tuy nhiên, chưa hết năm học, khoảng cuối tháng 4-1906, Nguyễn Tất Thành dừng học ở trường Pháp – bản xứ tại thành phố Vinh để cùng cha lên đường vào Huế khi ông Nguyễn Sinh Huy vào nhận chức quan sau nhiều lần từ chối.(Nguồn tư liệu sách: Bác Hồ thời niên thiếu NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội)
Những bài học đầu tiên từ sự dạy dỗ của người mẹ, người cha, và những người thân, cùng những năm tháng học chữ Hán với các thầy đồ ở quê đã cho Nguyễn Tất Thành thấu hiểu đạo lý của Nho giáo để ứng xử trong cuộc sống. Những tri thức đầu tiên tuy đơn giản song sâu sắc nên đã khắc sâu vào tâm trí Hồ Chí Minh. Ngoài việc học các thầy đồ, Nguyễn Tất Thành còn học nhiều điều hay, mới lạ ở bà con, hàng xóm, và cũng để lại ở Người nhiều kỉ niệm sâu sắc, một số kiến thức thiết thực rất bổ ích. Nguyễn Tất Thành còn theo cha đi dạy học nhiều nơi, được thăm nhiều danh lam thắng cảnh, nhiều di tích lịch sử, được nghe nhiều câu chuyện lịch sử về những cuộc đấu tranh của nhân dân Nghệ – Tĩnh, trong đó có đồng bào quê hương Nam Đàn, Xã Chung Cự của mình đã anh dũng chống ngoại xâm. Những hiểu biết, cũng như những cảm xúc mà Nguyễn Tất Thành thu nhận được trong đời sống đã góp phần không nhỏ vào sự hình thành nhân cách, tình cảm của anh đối với đồng bào, quê hương đất nước. Những hiểu biết và ấn tượng thời niên thiếu sống mãi trong lòng Chủ tịch Hồ Chí Minh.