VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

          Trong quá trình tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm đến Chủ nghĩa Mác – Lê nin, thâm nhập vào phong trào cộng sản và công nhân của quốc tế, nắm bắt tình hình trong nước và thế giới tranh thủ mọi thời cơ thuận lợi để phát triển cách mạng Việt Nam tiến tới giành độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân.
          Sau Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 7, Đảng cộng sản Việt Nam được công nhận là bộ phận của quốc tế cộng sản. Tiếp đến thắng lợi của mặt trận bình dân Pháp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc coi đây là một cơ hội hiếm có đối với chúng ta, vì thế chúng ta phải dứt khoát không được bỏ lỡ thời cơ. Cái chính hiện nay là phải bảo đảm sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, đặc biệt là giữa các bộ phận trong nước và ngoài nước. Người đã giao cho đồng chí Minh Khai và đồng chí Hoàng Văn Mọn vào Sài Gòn truyền đạt lại cho anh Duy (tức đồng chí Lê Hồng Phong) lúc này đang trực tiếp chỉ đạo tổ chức các hoạt động cách mạng ở Sài Gòn và các vùng lân cận ba ý kiến sau đây:
          Một là, do thắng lợi của mặt trận bình dân Pháp tình hình Đông Dương nhất định sẽ thay đổi theo chiều hướng tích cực. Vì thế, Ban chấp hành Trung ương Đảng ở Hải ngoại phải nhanh chóng trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo phong trào yêu nước, chỉ giữ lại ở nước ngoài một bộ phận nhỏ để liên lạc với quốc tế.
          Hai là, bọn Tơ – rốt – kít ở khắp nơi, cũng như ở Việt Nam, đều đã lộ rõ bản chất phản động. Đảng ta phải kiên quyết đoạn tuyệt và không thỏa hiệp với chúng.
          Ba là, phải bằng mọi cách thành lập cho được mặt trận dân tộc chống phát xít, chống chiến tranh và thu hút vào mặt trận ấy các lực lượng yêu nước rộng rãi, tất cả những ai có khả năng tiến hành đấu tranh cứu nước, cứu dân.
          Ngày 20/6/1940 sau khi nghe tin Pari bị quân Đức chiếm. Người đã triệu tập một cuộc họp và phân tích: " việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng".
          Thế là ngày 28/1/1941 Nguyễn Ái Quốc đã lên đường về nước ở cột mốc 108 trên thế giới Việt  – Trung (thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng). Từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, hội nghị lần thứ VIII của Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương họp dưới sự chủ trì của lãnh đạo Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị đã khẳng định: Nhiệm vụ chủ yếu trước mặt cách mạng là giải phóng dân tộc: " Pháp – Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương, trong lúc này khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết làm sao phải giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp – Nhật … Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp trâu ngựa, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được".
          Trong năm này, Nguyễn Ái Quốc đã tập trung vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng mặt trận các đoàn thể nhân dân, mở các lớp huấn luyện chính trị và quân sự, chuẩn bị thành lập lực lượng vũ trang.
          Trong bước chuyển biến của tình hình, nhận thức tầm quan trọng của liên minh quốc tế, đặc biệt là sự phối hợp cùng nhân dân Trung Quốc chống Nhật, ngày 13/8/1942  Nguyễn Ái Quốc lên đường sang Trung Quốc với tên mới là Hồ Chí Minh, Người đi với tư cách là đại biểu của phong trào Việt Minh và đại diện của phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội quốc tế chống xâm lược. Ngày 27/8/1942 Người đến Túc Vinh (Thiên Bảo) Quảng Tây bị bắt với lý do các giấy tờ tùy thân đã quá hạn. Hơn một năm trời bị giải qua hơn 30 nhà lao của 13 huyện của tỉnh Quảng Tây, trải qua những ngày tháng giam cầm đầy cực khổ. Ngày 10/9/1943 Người được thả tự do. Phải đến cuối tháng 9/1944 Người mới về đến Cao Bằng. Tháng 10/1944 Người viết thư gửi đồng bào toàn quốc: " Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa".
          Tháng 2/1944 Người giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp thành lập đại hội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Người căn dặn: " Nhớ bí mật: Ta ở Đông, địch tưởng ta ở Tây, lai vô ảnh, khứ vô hình".
          Ngày 4/5/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu cuộc hành trình rời Pác Bó về Tân Trào. Cuối tháng 7/1945, tại lán Nà Lừa Người bị ốm nặng. Một hôm thấy Người sốt cao, đồng chí Võ Nguyên Giáp xin ở lại với người. Đêm ấy lúc tỉnh dậy sau cơn sốt, Người nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp: " Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải cương quyết giành cho được độc lập". Một lần khác, Người nói: " Lúc nào cũng phải chú ý xây dựng chi bộ, bồi dưỡng cán bộ, Đảng viên và các phần tử trung kiên". Người còn ráo riết thúc dục hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào. Người nói: " Nên họp ngày và cũng không nên kéo dài thời gian hội nghị. Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút, tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng, không thể để lỡ cơ hội".
          Giữa tháng 8/1945, phong trào kháng Nhật cứu nước, khởi nghĩa từng phần cuồn cuộn dâng lên từ Bắc đến Nam. Trong khi đó, quân Đồng Minh đã đánh bại quân đội Phát xít Nhật. Ngày 14/8/1945, vua Nhật tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang tê liệt. Còn thực dân Pháp thì ráo riết quay trở lại xâm lược Đông Dương. Thời cơ Tổng khởi nghĩa đã chín muồi. Sau hội nghị cán bộ của Đảng cộng sản Đông Dương và Tổng bộ Việt Minh, ngày 18/8/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ra mà giải phóng cho ta … chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!". Ngày 19/8 khởi nghĩa thành công ở Hà Nội, ngày 23/8 ở Sài Gòn. Trong một thời gian ngắn tổng khởi nghĩa thành công trong cả nước.
          Ngày 2/9/1945, tại Quảng Trường Ba Đình trước hàng vạn nhân dân Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – Nhà nước Công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một thời đại mới – Thời đại độc lập của dân tộc và tự do của nhân dân Việt Nam.
          Tinh thần cách mạng tháng tám đã và đang được Đảng và nhân dân ta phát huy trong sự nghiệp đổi mới để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong quá trình hội nhập và phát triển đẻ thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng văn minh, sánh vai các cường quốc năm châu như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn.
 

                                                          An Vinh
                                                              Phòng Tuyên truyền giáo dục
Danh mục: Chưa phân loại

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *