Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ và anh trai đi bộ vào Huế (ảnh chụp tranh vẽ)
Hồ Chí Minh – Người đã để lại cho hậu thế một di sản đồ sộ và vô giá về tư tưởng, đạo đức và phong cách. Để hiểu sâu sắc, trọn vẹn giá trị di sản Hồ Chí Minh, không thể không nghiên cứu về bối cảnh xã hội và môi trường văn hóa đã kiến tạo nên con người Hồ Chí Minh. Trong đó, hai vùng đất Nghệ An và Huế đóng vai trò đặc biệt quan trọng, được xem là nơi định hình, là hai cái nôi nối tiếp nhau, hội tụ tinh hoa, tạo nên những phẩm chất căn cốt nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh– vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Bài tham luận này tác giả nhằm làm rõ mối liên hệ hữu cơ giữa Nghệ An và Huế trong việc kiến tạo nên di sản vĩ đại đó.
- Nghệ An – Cội nguồn của đạo đức và tư tưởng yêu nước sơ khai
* Gia đình – cái nôi của đạo đức trong sáng
Nguyễn Sinh Cung (tên gọi thuở nhỏ của Chủ tịch Hồ Chí Minh), cất tiếng khóc chào đời vào ngày 19/5/1890, trong ngôi nhà nhỏ đơn sơ ở quê ngoại Hoàng Trù, xã Chung Cự, Tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay là làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, tỉnh Nghệ An). Gia đình có ảnh hưởng nền tảng, sâu sắc đến việc hình thành nhân cách, tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, góp phần tạo nên một di sản vĩ đại và toàn diện của Người.
Trước tiên là ảnh hưởng từ người cha – Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, một nhà Nho uyên thâm nhưng không màng danh lợi, đã truyền dạy cho con cái tinh thần yêu nước, tấm lòng thương dân sâu sắc, lối sống thanh bạch, liêm khiết, ý chí, nghị lực phi thường. Những lời dạy về “chữ trung, chữ hiếu”, về lẽ phải và sự công bằng của cha đã trở thành kim chỉ nam cho đạo đức Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, hình ảnh người mẹ hiền thục, tảo tần là bà Hoàng Thị Loan đã dạy cho Nguyễn Sinh Cung bài học quý giá về tình yêu thương, sự sẻ chia và tinh thần vượt khó. Bà còn là người đã gieo mầm lòng nhân ái và thói quen sống giản dị, gần gũi qua cách đối nhân xử thế hàng ngày.
Từ lúc sinh ra đến tuổi lên 5 (1890 – 1985), Nguyễn Sinh Cung sống ở quê nhà trong sự chăm sóc đầy yêu thương của ông bà ngoại và cha mẹ, anh, chị. Ông ngoại Hoàng Xuân Đường là một nhà Nho đức độ, có lòng nhân ái, bao dung, hết lòng yêu thương, tạo điều kiện cho con, cháu. Bà ngoại Nguyễn Thị Kép là người phụ nữ nông thôn nhân hậu, đảm đang, thuộc nhiều làn điệu dân ca xứ Nghệ.Những câu chuyện lịch sử, những tấm gương anh hùng được nghe từ ông ngoại, những làn điệu dân ca, những câu chuyện cổ tích mà bà ngoại thường hay kể đã in sâu vào tâm trí cậu bé Nguyễn Sinh Cung. Chính gia đình bên ngoại đã tạo ra một môi trường văn hóa – đạo đức mẫu mực, là nơi Nguyễn Sinh Cung tiếp thu những bài học đầu tiên về đạo lý làm người, lòng nhân ái và tinh thần yêu nước. Sự giản dị, chí công vô tư, ghét thói xa hoa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện suốt cuộc đời mình chính là sự kế thừa và phát triển từ nền tảng gia đình tại quê hương.
Sau khi mẹ và em trai mất ở Huế, từ (1901 – 1906), Nguyễn Sinh Cung về sống cùng gia đình tại quê nội Làng Sen với tên mới là Nguyễn Tất Thành. Khoảng tháng 9/1905, Nguyễn Tất Thành được cha cho theo học tại Trường Tiểu học Pháp – bản xứ ở thành phố Vinh. Chính tại ngôi trường này, lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc với khẩu hiệu: Tự do, Bình Đẳng, Bác ái. Sau này, Người có nhắc lại: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy” [1].
Trong khoảng 10 năm sống và học tập ở quê nhà, sự kết hợp giữa truyền thống gia phong và tinh thần quê hương đã tạo nên một Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành vừa có học vấn, vừa có khí phách, lại vừa có tấm lòng nhân hậu. Những giá trị căn cốt từ Nghệ An này chính là những nhân tố quan trọng hình thành nên tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này.
* Truyền thống quê hương xứ Nghệ – nơi hun đúc chí hướng cách mạng
Nghệ An hay còn gọi là xứ Nghệ không chỉ là cái nôi gia đình mà còn là mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, nơi tinh thần yêu nước được hun đúc qua hàng thế kỷ.
Xứ Nghệ nổi tiếng là “đất học”, nơi sản sinh ra nhiều nhà Nho, chí sĩ yêu nước lỗi lạc. Khi về sống tại Làng Sen, Nguyễn Tất Thành được cha gửi đến học chữ Hán với các thầy giáo Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý, và thầy giáo Trần Thân. Các thầy đều là những người yêu nước. Bên cạnh đó, Nguyễn Tất Thành còn được theo cha đi dạy học và đàm đạo việc nước với các sĩ phu yêu nước khắp vùng Bắc Trung bộ. Trong những buổi theo cha bàn việc nước, cậu đã nghe được những điều các cụ bàn luận, những việc mà các cụ ưu tư, lo lắng. Cậu hiểu được những trăn trở của cha và các sĩ phu đương thời. Sau này, Người có nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này thì nghĩ là Nhật, người khác thì nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ [2].
Xứ Nghệ -nơi con người có khí phách kiên cường, ý chí vượt khó và lòng căm thù giặc sâu sắc, là trung tâm của các phong trào đấu tranh chống ngoại xâm và triều đình phong kiến.Từ thuở ấu thơ, Nguyễn Tất Thành đã chứng kiến cảnh nông dân bị áp bức, bóc lột, tinh thần quật cường không bao giờ chịu khuất phục của người dân nơi đây. Chính bối cảnh văn hóa – xã hội đầy biến động này đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng sơ khai của Người. Từ đó, Người nung nấu một quyết tâm, một khát vọng cứu nước cháy bỏng, thôi thúc Người tìm một con đường mới. Đây là hạt nhân đầu tiên của tư tưởng độc lập, tự chủ sau này của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
Như vậy, Nghệ An không chỉ là mảnh đất chôn nhau cắt rốn mà còn là trường học đầu tiên nuôi dưỡng tâm hồn, rèn giũa nên những phẩm chất đạo đức cao quý, đồng thời là nơi nhen nhóm lên ngọn lửa tư tưởng yêu nước ban đầu và bền bỉ trong Người. Từ gia phong thanh bạch, từ truyền thống quê hương, Người tiếp thu được cội rễ và ý chí độc lập. Những giá trị nền tảng này là hành trang không thể thiếu, là bệ phóng vững chắc để Người tiếp tục phát triển tri thức, định hình phong cách làm việc và cuối cùng là hoàn thành sứ mệnh lịch sử khi dấn thân vào những chặng đường thử thách mới, mà Huế là giai đoạn nối tiếp quan trọng. Chính sự kết hợp hài hòa giữa gia phong chuẩn mực và khí phách cách mạng đã tạo nên một Nguyễn Tất Thành đầy hoài bão, sẵn sàng rời Tổ quốc đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc, biến Nghệ An trở thành cội nguồn thiêng liêng và vĩnh cửu của Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh.
- Huế -nơi định hình phong cách và chí hướng cách mạng
Nếu Nghệ An là nơi sinh thành và nuôi dưỡng tâm hồn, thì Huế là môi trường thực tiễn giúp Người hoàn thiện tri thức, mở rộng tầm nhìn và định hình phong cách làm việc.
Thừa Thiên Huế là nơi lưu giữ nhiều di tích gắn liền với những kỷ niệm thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là cái nôi hình thành nhân cách, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một con người, đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nhận xét: Thời gian ở Huế là thời gian Nguyễn Tất Thành lớn lên và bắt đầu đi học. Những năm tháng đó là thời gian cực kỳ quan trọng đối với sự hình thành con người Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng anh trai theo cha mẹ vào Huế để cha theo nghiệp thi cử.Từ cuối 1895 đến đầu năm 1901, Nguyễn Sinh Cung sống cùng cha mẹ tại thành nội Huế (nay là số nhà 112 đường Mai Thúc Loan). Những tháng ngày tuổi thơ sống tại Huế, Nguyễn Sinh Cung đã chứng kiến sự miệt mài đèn sách, khổ công học hành của cha; sự đảm đang, nỗi gian lao vất vả của mẹ. Đặc biệt là khi mẹ và em trai qua đời tại Huế, gia đình Nguyễn Sinh Cung được bà con láng giềng thân thiết cưu mang, đùm bọc, giúp đỡ việc đám tang, đưa mẹ Hoàng Thị Loan về nơi an nghỉ cuối cùng tại Núi Bân (phường An Tây, thành phố Huế) khi cha chưa kịp vào Huế. Lúc này Nguyễn Sinh Cung mới 11 tuổi, nhưng nghĩa tình sâu nặng của người dân xứ Huế đã khắc in vào tâm trí cậu bé Cung.
Những năm sống ở Kinh thành Huế, Nguyễn Sinh Cung thấy được nhiều điều mới lạ. So với quê hương xứ Nghệ, Huế có nhiều nhà cửa to đẹp, nhiều cung điện uy nghiêm. Cậu thấy ở Huế có nhiều lớp người, những người Pháp thống trị nghênh ngang, hách dịch và tàn ác; những ông Nam triều bệ vệ trong những chiếc áo gấm, hài nhung, mũ cánh chuồn, nhưng lại khúm núm, rụt rè; còn phần đông người dân lao động thì chịu chung số phận đau khổ và tủi nhục; đó là những người nông dân rách rưới mà người Pháp gọi là “bọn nhà quê”, những phu khuân vác, những trẻ em nghèo khổ, lang thang trên đường phố… Nguyễn Sinh Cung sớm nhìn thấy bức màn dối trá đang bao trùm cảnh đế đô và toàn bộ đất nước. Thảm họa diệt vong của dân tộc đặt ra cho Người những suy nghĩ phải tìm con đường cứu nước, cứu dân và lòng căm thù quân cướp nước và bọn tay sai bán nước. Như vậy, đối với Nguyễn Sinh Cung, kẻ thù của dân tộc Việt Nam không chỉ là thực dân Pháp mà cả bọn phong kiến tay sai.
Đặc biệt trong lần thứ 2 theo cha vào Huế (từ tháng 5/1906 đến năm 1911) – đây là thời kỳ đánh dấu một bước chuyển biến cực kỳ quan trọng trong nhận thức và hành động của Nguyễn Tất Thành. Bởi vì lúc này anh đã trở thành một thanh niên, có đủ trí lực để suy nghĩ về thời cuộc, về cuộc đời.
Năm 1906, Nguyễn Tất Thành được cha xin cho vào học tại Trường Pháp – Việt Đông Ba. Đây là ngôi trường dạy 3 thứ chữ: chữ Hán, chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Tại đây, Nguyễn Tất Thành có điều kiện đi tìm câu trả lời cho những từ cậu còn băn khoănkhi còn ở Nghệ An, đó là“Tự do, Bình đẳng, Bác ái”.Người hiểu rằng, để đánh đuổi giặc Pháp chỉ có cách là phải hiểu Pháp. Đây là một điều có ý nghĩa quan trọng trong quá trình định hình nhận thức của Nguyễn Tất Thành. Những gì học được, nghe thấy được, đối với cậu là những bài học hết sức sống động, có ấn tượng mạnh mẽ.
Sau khi tốt nghiệp bậc tiểu học tại Trường Pháp – Việt Đông Ba, Nguyễn Tất Thành được đặc cách chuyển thẳng vào Trường Quốc học Huế. Được học tập tại Trường Quốc học Huế không chỉ giúp Nguyễn Tất Thành có điều kiện chứng kiến thực trạng xã hội của chế độ phong kiến triều Nguyễn mà còn được tiếp xúc với nền giáo dục và văn minh của Pháp. Qua đó, Nguyễn Tất Thành sớm nhận ra được bản chất của chế độ thực dân với cái gọi là “khai hóa văn minh”. Đằng sau ba chữ: Tự do, Bình đẳng, Bác ái là chế độ của những người ở tầng lớp trên đè nén, bóc lột những người dân lao động. Thực tế này giúp cậu ngày càng nhận ra chân tướng kẻ thù của dân tộc, nhen lên ngọn lửa yêu nước, thương dân và lòng căm thù giặc sâu sắc.
Tại Trường Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành còn chịu sự tác động mạnh mẽ đến sự hình thành tư tưởng yêu nước của những thầy giáo tiến bộ. Đặc biệt là thầy giáo Hoàng Thông và thầy giáo Lê Văn Miến đã giúp Nguyễn Tất Thành hiểu rằng người Pháp ở nước Pháp khác với người Pháp ở thuộc địa. Ở bên Pháp cũng có những người ăn mày… Chính việc dạy dỗ của các thầy là một yếu tố quan trọng trong việc hình thành tư tưởng sang Tây của anh. Qua các bài giảng, Nguyễn Tất Thành đọc thấy những giá trị văn minh,những giá trị nhân quyền, dân quyền từ các cuộc cách mạng tư sản, nhất là từ cuộc cách mạng Pháp năm 1789.
Đặc biệt, năm 1908, Nguyễn Tất Thành nhiệt tình tham gia phong trào chống thuế của nông dân Trung kỳ ở Thừa Thiên Huế. Đây là sự kiện có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong những năm tháng Nguyễn Tất Thành cùng gia đình sống ở Huế.“Sự kiện lịch sử này có tác động đến sự hình thành nhân cách, tư tưởng yêu nước và cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong buổi thiếu thời” [3]. Với sự kiện này, Nguyễn Tất Thành đã chuyển từ nhận thức yêu nước sang hành động yêu nước, hành động dấn thân vào hoạt động cách mạng, tích lũy thêm cho mình những kinh nghiệm, sự cứng cỏi, kiên trung và cách thức tổ chức, lãnh đạo. Đây có thể gọi là khởi đầu của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đồng bào của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sau này.
Huế – một trung tâm chính trị, văn hóa của đất nước, nơi đây hội tụ những trí thức yêu nước lỗi lạc, có chủ trương tiến bộ; các phong trào yêu nước do các sĩ phu khởi xướng và lãnh đạo phát triển rầm rộ, mang đến những luồng tư tưởng mới như phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh, Lương Văn Can… đã thức tỉnh Nguyễn Tất Thành. Lúc bấy giờ, Nguyễn Tất Thành đã nhận xét con đường cứu nước của cụ Hoàng Hoa Thám “còn nặng cốt cách phong kiến”, cụ Phan Bội Châu thì khác gì“đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, còn cụ Phan Chu trinh thì “chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương” [4]. Chính vì vậy đã thôi thúc Người đi tìm con đường đi khác biệt: “Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi” [5].
Ở Huế, Nguyễn Tất Thành không chỉ học trên ghế nhà trường mà còn tích cực đọc sách báo, tìm hiểu văn hóa, chính trị. Đây là khởi điểm cho phong cách tự học, nghiên cứu và tổng hợp kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau, vốn là nền tảng cho tư tưởng cách mạng sáng tạo sau này. Cũng ở Huế, Người được tiếp xúc với nhiều luồng tư tưởng, từ quan lại, trí thức đến dân nghèo, giúp Người hình thành phong cách gần dân, lắng nghe, thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của quần chúng. Chính những biến cố chính trị và xã hội tại Huế đã giúp Người nhận thức sâu sắc về sự cần thiết của sự thay đổi, tạo nên phong cách quyết đoán trong hành động và lựa chọn con đường cách mạng để cứu nước, cứu dân.
Có thể nói, trong những năm tháng ở Huế, con người Huế, văn hóa Huế, truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân Thừa Thiên Huế đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn Nguyễn Tất Thành -Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Đó chính là cội nguồn hình thành tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo; phong cách làm việc khoa học, phong cách ứng xử văn hóa, phong cách sinh hoạt giản dị, thanh cao; đặc biệt là tư tưởng yêu nước, thương dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Sự tiếp nối và hội tụ tinh hoa di sản Hồ Chí Minh từ Nghệ An đến Huế
Sự vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện ở tầm nhìn chiến lược mà còn ở khả năng tổng hòa và phát triển những giá trị truyền thống của dân tộc thành những nguyên tắc cách mạng cốt lõi. Trong tiến trình hình thành tư tưởng ấy, Nghệ An (quê hương cội rễ) và Huế (nơi hấp thụ văn hóa và tiếp xúc với thời cuộc) chính là hai mắt xích không thể tách rời, tạo nên nền tảng vững chắc cho sự nghiệp cách mạng của Người.
Nghệ An là nơi gieo mầm nhân cách; Huế là nơi tưới tắm và khai mở tầm vóc trí tuệ của Người. Nếu Nghệ An là nguồn cội của lòng yêu nước và đạo đức Hồ Chí Minh, thì Huế là môi trường đã hội tụ và chuyển hóa những tinh hoa đó thành tư tưởng cứu nước mang tính thời đại. Chính sự tiếp nối nhuần nhuyễn giữa khí phách kiên cường từ Nghệ An và trí tuệ khai phóng, thực tiễn chính trị từ Huế đã tạo nên động lực để mùa hè năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành quyết định rời bến cảng Sài Gòn ra đi tìm đường cứu nước, bắt đầu một hành trình vĩ đại làm thay đổi lịch sử dân tộc Việt Nam. Tinh hoa đạo đức được nuôi dưỡng ở Nghệ An đã trở thành hạt nhân để hình thành phong cách ở Huế và sau này là toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự thanh bạch, cần kiệm của nếp sống gia đình xứ Nghệ trở thành tính giản dị, khiêm tốn trong phong cách sống và làm việc của Người.
Lòng nhân ái từ mẹ Hoàng Thị Loan, tấm lòng vì nước vì dân từ cha Nguyễn Sinh Sắc:“Nước mất không lo đi tìm, tìm cha phỏng có ích gì” [6] được phát triển thành tình yêu bao la đối với dân tộc và nhân loại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là sự quan tâm, chia sẻ và đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết:“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [7].
Nếu như Nghệ An là nơi cung cấp nền tảng Nho học, văn hóa truyền thống và ý chí dân tộc ban đầu cho Nguyễn Sinh Cung thì những năm tháng sống tại Huế đã cung cấp kinh nghiệm về đấu tranh, tiếp xúc với văn minh và tư tưởng phương Tây, từ đó giúp Người tìm thấy Chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Kết quả của sự hội tụ này là một tư tưởng cách mạng vừa mang tính dân tộc sâu sắc, vừa mang tính thời đại tiên phong; vừa uyên bác, lại vừa gần gũi, dễ hiểu, thông qua phong cách giản dị và đạo đức trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nghệ An và Huế là hai cái nôi lớn, hai giai đoạn thiết yếu trong hành trình tôi luyện nhân cách và hình thành di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghệ An với bề dày truyền thống gia đình và quê hương, đóng vai trò là cội nguồn sâu xa của lòng yêu nước, nơi ươm mầm đạo đức và những tư tưởng cách mạng ban đầu. Trong khi đó, Huế với môi trường giáo dục tân tiến và thực tiễn xã hội đầy biến động, là nơi tôi luyện phong cách làm việc khoa học, đồng thời định hình chí hướng cách mạng rõ nét.
Sự tiếp nối giữa hai vùng đất này là một quá trình hội tụ và phát triển tinh hoa, làm phong phú thêm di sản Hồ Chí Minh, kiến tạo nên một nhân cách vĩ đại có giá trị bền vững cho dân tộc và nhân loại. Chính sự hội tụ sâu sắc tại hai miền đất này đã để lại một nguồn tài sản vô tận cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hôm nay và mai sau./.
Chú thích:
[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 1, tr.461. [2]. Hồ Chí Minh:Tiểu sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.21. [3]. Âm vang Bác Hồ ở Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2003, tr.110 [4]. Trần Dân Tiên – Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch. Nxb. Thanh Niên, 2012, tr.14 [5]. Hồ Chí Minh:Tiểu sử, sđd, tr.21 [6]. Thành Long, Xúc động thăm nơi Bác Hồ gặp phụ nhân lần cuối, theo website www.vov.vn, ngày 16-5-2020. [7]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.187Nguyễn Bảo Tuấn – Giám đốc Khu di tích Kim Liên

Nhà ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc ở Làng Sen, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay là xã Kim Liên, tỉnh Nghệ An).

Ngôi nhà – nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh cất tiếng khóc chào đời ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay là xã Kim Liên, tỉnh Nghệ An).

Nhà ông bà ngoại Chủ tịch Hồ Chí Minh ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay là xã Kim Liên, tỉnh Nghệ An).

Ngôi nhà 112 Mai Thúc Loan (Huế) – là nơi từng gắn bó với thời thơ ấu của Bác Hồ.

Nhà lưu niệm thời niên thiếu của Bác Hồ tại làng Dương Nỗ (Huế)
- KHU DI TÍCH KIM LIÊN TỔ CHỨC DIỄN TẬP PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY
- BỘ TƯ LỆNH QUÂN KHU 4 DÂNG HOA, DÂNG HƯƠNG, TƯỞNG NIỆM CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH NHÂN NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SỸ
- THƯ TRUNG THU BÁC HỒ GỬI CÁC CHÁU THIẾU NHI, NĂM 1952
- ĐOÀN ĐẠI BIỂU LÃNH ĐẠO TỈNH NGHỆ AN DÂNG HOA, DÂNG HƯƠNG TƯỞNG NIỆM CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
- Uncle Ho’s thoughts on the role of women in society









