Chủ tịch Hồ Chí Minh xem văn bia ghi danh các tiến sĩ Việt Nam tại Văn Miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội, ngày 29/1/1960.
Trong tiến trình dựng nước và giữ nước, văn hóa luôn giữ vị trí cốt lõi tạo nên bản sắc và sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh – lãnh tụ thiên tài và danh nhân văn hóa thế giới sớm nhận thức sâu sắc vai trò của văn hóa và di sản văn hóa đối với sự phát triển bền vững của quốc gia. Người không chỉ để lại một hệ thống quan điểm lý luận sâu sắc về văn hóa mà còn là tấm gương thực hành tiêu biểu cho việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc.
Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vận dụng vào công tác bảo tồn di sản càng có ý nghĩa quan trọng. Nhân dịp kỷ niệm 20 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/2005 – 23/11/2025) xin được giới thiệu tư tưởng, tầm nhìn và đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giữ gìn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam, đồng thời liên hệ với thực tiễn hiện nay.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và di sản văn hóa
* Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội
Hồ Chí Minh là người đầu tiên ở Việt Nam đặt vấn đề văn hóa trong mối quan hệ chặt chẽ với chính trị, kinh tế và xã hội. Phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 1946, Người khẳng định: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” [1]. Quan điểm này được xem là nền tảng cho đường lối văn hóa của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Theo Người, văn hóa không chỉ là sản phẩm tinh thần mà còn là sức mạnh nội sinh, tạo động lực cho đổi mới và phát triển.
* Di sản văn hóa – tài sản vô giá của dân tộc
Hồ Chí Minh coi di sản văn hóa như một phần linh hồn của dân tộc. Trong bài “Lịch sử nước ta” đăng Báo Việt Nam độc lập, năm 1942, Người nhấn mạnh: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” [2]. Ở đây, Người khẳng định trách nhiệm của mọi công dân trong việc học tập lịch sử, bảo tồn các giá trị truyền thống, bởi mất văn hóa là mất cội nguồn và sức mạnh dân tộc.
* Xây dựng nền văn hóa mới: dân tộc – khoa học – đại chúng
Trong tác phẩm Đời sống mới (1947), Người nêu rõ việc kết hợp gìn giữ truyền thống với tiếp thu tinh hoa nhân loại để xây dựng nền văn hóa mới. Người khẳng định văn hóa mới phải mang ba tính chất: “Phải xây dựng một nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng. Phải nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân” [3]. Dân tộc – giữ bản sắc Việt Nam, đề cao lòng yêu nước. Khoa học – tiến bộ, phù hợp thời đại. Đại chúng – phục vụ nhân dân và do nhân dân sáng tạo. Đây là tư tưởng nền tảng cho đường lối văn hóa của Đảng qua các thời kỳ. Tư tưởng này trở thành định hướng lâu dài cho sự nghiệp phát triển văn hóa Việt Nam hiện đại.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh – tấm gương tiêu biểu trong bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
* Bảo vệ di tích, tôn trọng giá trị truyền thống
Trong thời kỳ kháng chiến, dù điều kiện vô cùng khó khăn, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở chính quyền và nhân dân tuyệt đối không được phá hoại các công trình văn hóa. Sắc lệnh số 65 ngày 23/11/1945 do Hồ Chí Minh ký, yêu cầu: “Cấm phá hủy đình, chùa, đền, miếu hoặc những nơi thờ tự khác …” [4]. Điều này cho thấy sự trân trọng của Người đối với di sản tín ngưỡng – những thiết chế gắn sâu với đời sống tinh thần của dân tộc. Đây là tầm nhìn chiến lược về bảo vệ di sản ngay cả trong chiến tranh.
* Gìn giữ tiếng Việt và giá trị văn hóa qua phong cách sống
Hồ Chí Minh là người sử dụng tiếng Việt mẫu mực, giàu hình tượng và đầy sức truyền cảm. Nhiều học giả đánh giá rằng Người đã đưa tiếng Việt lên tầm một ngôn ngữ văn hóa hiện đại. Người có lối sống giản dị, tiết kiệm, hòa đồng, trọng nghĩa tình. Bác từng căn dặn cán bộ: “Phải gần dân, giúp dân, thương yêu, quý trọng dân, học tập dân” [5].
* Khuyến khích sáng tạo văn hóa và tiếp thu tinh hoa nhân loại
Trong thư gửi Văn nghệ sĩ tại Hội nghị Văn nghệ toàn quốc (1951), Người khẳng định:“Văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa” [6]. Người đặc biệt quan tâm đến việc sáng tạo tác phẩm nghệ thuật phản ánh công cuộc đấu tranh, đồng thời kế thừa chất liệu truyền thống Việt Nam.
3. Giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh trong bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
* Tư tưởng của Người là nền tảng cho các chính sách văn hóa hiện nay
Nhiều chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước kế thừa trực tiếp tư tưởng Hồ Chí Minh, như: Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc [7]; Luật Di sản văn hóa (2001, sửa đổi 2009) [8]; Chiến lược phát triển văn hóa 2020 – 2030 [9]. Nhờ đó, Việt Nam đã có nhiều di sản được UNESCO [10] công nhận: Nhã nhạc Cung đình Huế (2003); Không gian Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên (2005); Ca trù (2009); Dân ca Quan họ Bắc Ninh (2009); Dân ca Ví dặm Nghệ Tĩnh (2014); Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ (2016); Hát Xoan (2017); Nghệ thuật Xòe Thái (2021); Lễ hội vía bà Chúa xứ Núi Sam (2024)… Việc ghi danh này thể hiện rõ sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát huy Di sản văn hóa của Đảng và Nhà nước ta trong thực tiễn.
* Xây dựng con người Việt Nam mới – trung tâm của văn hóa
Theo Hồ Chí Minh, văn hóa phải hướng đến “xây dựng con người toàn diện”, có lý tưởng, đạo đức, tri thức và tinh thần dân tộc. Đây là cơ sở cho các chương trình giáo dục văn hóa, đạo đức, lối sống trong thanh thiếu niên ngày nay.
* Gắn bảo tồn di sản với phát triển kinh tế bền vững
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và văn hóa. Trong thực tiễn hiện nay, nhiều mô hình du lịch văn hóa dựa trên di sản đã đem lại hiệu quả lớn: Quần thể di tích Cố đô Huế; Phố cổ Hội An; Quần thể danh thắng Tràng An; Các làng nghề truyền thống (gốm Bát Tràng, lụa Vạn Phúc…). Đây là minh chứng cho giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa
Một là, tìm hiểu, tự hào và trân trọng giá trị truyền thống. Thế hệ trẻ cần học tập lịch sử, tìm hiểu di sản để xây dựng lòng tự tôn dân tộc đúng như lời chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn.
Hai là, tham gia hoạt động bảo tồn và truyền thông văn hóa. Các mô hình thanh niên như: Đội tuyên truyền viên trẻ tại các khu di tích; Chương trình “Tuyến đường văn hóa” của Đoàn thanh niên; Câu lạc bộ bảo tồn hát Xoan, hát Quan họ của học sinh – sinh viên; Câu lạc bộ Dân ca ví dặm… đang góp phần bảo vệ giá trị truyền thống của dân tộc.
Ba là, số hóa và quảng bá di sản trong thời đại công nghệ. Thanh niên có thể đưa di sản lên môi trường số qua: Video sáng tạo về di tích; Bản đồ số di sản; Các dự án số hóa tài liệu Hán Nôm; Truyền thông trên mạng xã hội… Điều này phù hợp tinh thần “kết hợp truyền thống với hiện đại” của Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát huy di sản văn hóa là di sản tư tưởng mang giá trị nhân văn, khoa học và bền vững. Người không chỉ xác lập nền tảng lý luận mà còn nêu tấm gương thực tiễn mẫu mực. Những quan điểm đó đã trở thành kim chỉ nam cho chính sách văn hóa Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế và bản sắc văn hóa trong tiến trình hội nhập và phát triển.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần sự chung tay của toàn xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ – những người kế thừa và sáng tạo tương lai của văn hóa Việt Nam. Thực hiện tốt điều này chính là cách thiết thực nhất để làm rạng rỡ nền văn hóa dân tộc và thực hiện di nguyện của Người.
Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11) có ý nghĩa sâu sắc trong việc khơi dậy lòng tự hào dân tộc và ý thức trách nhiệm gìn giữ các giá trị truyền thống. Đây là dịp để mỗi người Việt Nam nói chung và cán bộ nhân viên Khu di tích Kim Liên nói riêng nhìn lại những di sản quý báu mà cha ông và Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại, từ đó trân trọng hơn bản sắc văn hóa của dân tộc, Di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời, ngày này cũng góp phần tuyên truyền, lan tỏa tinh thần bảo tồn di sản trong cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Thông qua các hoạt động tôn vinh, giáo dục và quảng bá, di sản văn hóa được tiếp nối và phát huy mạnh mẽ hơn trong đời sống hiện đại. Vì vậy, Ngày Di sản văn hóa không chỉ nhằm tri ân quá khứ mà còn hướng tới tương lai, xây dựng nền văn hóa Việt Nam bền vững và giàu bản sắc./.
Chú thích:
[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 1, tr.XXV. [2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 3, tr.255. [3]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.265 [4]. Hồ Chí Minh: Sắc lệnh số 65, ngày 23/11/1945 [5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 9, tr.59 [6]. Bác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1995, tr.5-6. [7]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, 1998. [8]. Quốc hội Việt Nam: Luật Di sản văn hóa (2001), sửa đổi 2009. [9]. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2020 – 2030. [10]. UNESCO: Danh mục Di sản văn hóa thế giới của Việt Nam (2003 – 2025).VƯƠNG NGA

Quần thể di tích cố đô Huế, di sản văn hóa thế giới được ghi vào danh mục Di sản thế giới của UNESCO, ngày 11/12/1993.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể và kiệt tác truyền khẩu của nhân loại vào năm 2005.









